Pages

Cuộc họp báo (13) Tiêu Cục Xuyên Vân Kiếm Pháp

BỐI CẢNH
Buổi họp báo của tiêu cục Xuyên Vân Kiếm Pháp hôm nay được tổ chức tại Sài Gòn. Lý do chúng tôi chọn họp báo ở đây là: 

* Ðể quý cử tọa tham dự có thể đi lại dễ dàng bằng những phương tiện phù hợp với khả năng của mình. 
* Dường như những phần tử quá khích hiện nay tạm thời không dùng vũ lực hoặc đe dọa sẽ dùng vũ lực với chúng ta. 
* Sau cùng là chúng tôi muốn cử tọa bốn phương có dịp biết đến Sài Gòn như là Hòn ngọc Viễn Ðông mà người ta thường ca tụng.

- Tam Tiểu Thư (vẫn với thái độ vui vẻ, thân hữu, nghiêm trang, đôn hậu và hiền lành): Em xin kính chào toàn thể quý cử tọa. Em có nhận được phiếu đăng ký câu hỏi của cử tọa AX. Xin vui lòng cho biết cử tọa AX đang ngồi đâu ạ? À có đây rồi, em xin mời quý cử tọa AX khai trương với câu hỏi đầu tiên của mình.

- AX đứng lên phát biểu: @ Cuộc họp báo 12

"* Về phương pháp: CTR dùng hình tượng QTABT làm đề mục tu tập, còn HSTD dùng "chấm đỏ" làm đề mục để liên lạc với ADIDA Phật có gì khác nhau? Kết quả của phương pháp mà CTR tập sẽ đạt được là gì? Là ra linh ảnh, hay đạt được một trạng thái nhất tâm nào đó?

* CTR chủ trương trung thành với Phật giáo nguyên thủy (PGNT) tại sao không dùng các đề mục của PGNT (các đề mục đó được đề cập ở cuốn Thanh tịnh đạo thì phải) mà lại dùng hình ảnh QTABT mà CTR cho là không có thực?

* CTR có phủ nhận phương pháp của HSTD không?
* Nếu phủ nhận thì phương pháp ATTNĐTM với các đề mục thiền định của Thiền nguyên thủy (như lửa, nước...) theo chủ trương của HSTD cũng là sai?* Nếu công nhận thì có công nhận thành tựu của những người đạt kết quả của bên HSTD không? hay chỉ phủ nhận thành tựu của riêng nhân vật HHDL?* Ông Tibu bên HSTD công nhận thành tựu của "Tiền Bối" Tổng Quản. Còn Tiền Bối Tổng Quản có chấp nhận thành tựu của Ngài Tibu?

(vì thấy có nhiều tranh luận giữa CTR với HSTD nên mới hỏi vậy)
AX. (AX đã hỏi mấy câu ở topic KHUI HỤI)"


- Bé Ba giơ tay phát biểu: Dạ con xin chen ngang một chút. Để mọi người hiểu rõ Pháp Tu mà cử tọa AX mới đề cập về Niệm Phật Quán Chấm Đỏ, thì cho con được xin phép giải thích về Pháp Tu như sau: Người nhận Đề Mục phải Niệm Phật và Quán chấm đỏ cho đến khi nào ra được Chấm Đỏ và từ đó lại đổi sang Linh Ảnh Phật Adida và cứ tiếp tục Quán đến khi nào ra được Linh Ảnh Adida, hình nổi 3D rõ ràng, rồi dùng Ấn thử Linh Ảnh và đây mới bắt đầu cuộc tiếp xúc với Linh Ảnh mà họ tin tuyệt đối là Phật Adida và tu học theo sự chỉ dạy của Linh Ảnh này ...

Từ đây nếu có bất kỳ thắc mắc gì họ đều vào hỏi Linh Ảnh và đương nhiên sẽ được Linh Ảnh trả lời rõ ràng, kể chuyện và cho xem thấy câu chuyện y như xem một video clip vậy, hình ảnh 3D, mầu sắc, âm thanh nổi. (Con cố gắng tường thuật rõ ràng nhưng cũng thật ngắn gọn, nếu chỗ nào không đúng, chưa đúng thì xin các Cô Chú bổ túc nhé!).

- Tam Tiểu Thư: Cám ơn lời giải thích của Bé Ba. Em xin mời một quý cử tọa đã có nhiều đóng góp ý kiến cho họp báo. Xin quý vị chào đón quý cử tọa Tây Ðộc (cả phòng họp vỗ tay vang rần). Trước khi quý cử tọa Tây Ðộc phát biểu, em xin phép nhắc là đây không phải buổi Luận Kiếm Hoa Sơn … em xin đề nghị quý cử tọa nhẹ tay cho.

- Tây Ðộc: Kính chào toàn thể quý cử tọa, kính chào
quý cử tọa AX. Căn cứ vào phần đóng góp của quý cử tọa đã nêu ở trên. Tôi xin đóng góp câu trả lời này làm hai phần:

* Phần thứ nhất: Có lẽ liên quan tới các thao tác kỹ thuật Nhập Định.
* Phần thứ hai: Phải nói thực sự là liên quan tới vấn đề đẳng cấp hay giai cấp trong nội bộ các trường phái. Vấn đề này có một lịch sử hết sức dài dòng phức tạp. Nếu có điều kiện chúng tôi sẽ tóm lược vấn đề này trong một bài viết với tựa đề: "Những bước thăng trầm của các tôn giáo trong lịch sử nhân loại và thân phận con người". Mong quý vị đón đọc ủng hộ.

Kính thưa quý cử tọa AX, cùng toàn thể
quý cử tọa.

Vấn đề quý cử tọa nêu ra là một vấn đề khá phức tạp, cho nên phải trình bày khá dài dòng, nếu không, e rằng dễ đưa đến sự ngộ nhận.

Ðể đi vào vấn đề một cách trực diện, thì trong phần comments tôi cũng đã có trình bày rồi, nhưng dường như chưa làm thỏa mãn
quý cử tọa. Thưa quý cử tọa, việc dễ nhìn nhất, dễ hiểu nhất đó là Pháp Tu Niệm Phật Quán Chấm Đỏ coi việc Quán Chấm Đỏ để liên lạc với Ngài A Di Ðà ở đây là một mục đích (Target) cần đạt tới. Và khi Quán ra được Linh Ảnh A Di Đà thì coi như việc tu Thiền Định đã thành công ở một chừng mực nào đó.

Trong khi đó nhóm CTR thì sử dụng đối tượng là QATT như một phương tiện, một công cụ (như bất cứ một công cụ bất kỳ nào khác) được xem như lý tưởng về đạo đức, dễ thương, dễ mến. Xin nhắc lại một lần nữa, đây chỉ là một công cụ, một phương tiện chứ không phải là một mục đích như chuyện
quý cử tọa Quán Chấm Đỏ và vị Phật A Di Ðà. Nhờ sử dụng công cụ này như là một phương tiện "một vật duy nhất", có nhiều khả năng sẽ làm cho Luồng Tâm Thức đứng lại và có nhiều khả năng Tốc Hành Tâm (Javana) sẽ xuất hiện. Nhờ kỹ thuật và tiến trình này thì số Tâm, Sắc, Nghiệp Lực … sẽ nghiêng về những dấu hiệu tích cực. Cụ thể là, từ mấy trăm Tâm (trong đó số lượng Bất Thiện Tâm nhiều không kể xiết, với những Tâm câu hữu, Tâm Sở …) nay giảm xuống vài chục Tâm, hầu hết là Tịnh Quan Tâm, Thiền Thiện Tâm … Số Sắc cũng giảm rõ rệt, từ 28 Sắc có khả năng giảm bớt một vài yếu tố Sắc, thí dụ: Bản Thể Sắc …

Quãng đường của người tu Thiền Định đạt được những yếu tố nói trên, là một tiến trình quá nhỏ trên bước đường tiến hóa. Mặt khác, trạng thái này vô cùng bất ổn, bấp bênh. Chẳng có gì bảo đảm là trong buổi Thiền Định tới, người tu lại đạt được những kết quả tương tự.

Ở tình trạng này, nếu quan tâm tới việc Thấy Biết (mà từ ngữ dân gian gọi là mở Huệ) để Thấy Biết cái gì đó; thì điều mong muốn của người tu Thiền Định đang ở trạng thái này, được mô tả ngắn gọn bằng những từ ngữ sau đây: Đó là "Trò chơi giải khát bằng rượu độc".

Chúng tôi xin nhắc lại một lần nữa hai cách tập luyện mà quý cử tọa nêu ra là hoàn toàn khác biệt không có một điểm nào tương thích cả.

Kính thưa quý cử tọa AX,

Để dễ hiểu, chúng tôi xin đưa ra một tình huống vô cùng đơn giản mà ai cũng dễ dàng hiểu: khi sử dụng phương tiện chuyên chở, tất nhiên các phương tiện này được gắn các loại động cơ kinh điển:

* Máy hơi nước >
Máy nổ > Máy Diesel > Máy điện ...

Quý cử tọa cũng như tất cả mọi người đều đã từng sử dụng những loại động cô nói trên cho phương tiện chuyên chở của mình là chiếc xe, chiếc tàu ... nhưng tất cả chúng ta chẳng bao giờ quan tâm là những động cơ đó do ai phát minh.

Cũng vậy, khi sử dụng kỹ thuật Thiền Định nào đó, không nhất thiết là phải nói về nguồn gốc và bản quyền thí dụ như của Phật Giáo Nguyên Thủy chẳng hạn. Trên thực tế, công thức "Chú Tâm vào vật duy nhất" chúng ta có thể tìm thấy ở các tài liệu của những người Tây phương thuộc trường phái thôi miên, trong tài liệu của trường phái Raja Yoga, của trường phái Phật Giáo Nguyên Thủy … Có thể còn của những trường phái khác nữa mà chúng ta chưa biết đến.

Tây Ðộc xin thay mặt cho Tam Tiểu Thư, chân thành cám ơn quý cử tọa AX đã nhiệt tình đóng góp nhiều lần, với tinh thần xây dựng cao, với lý tưởng đi tìm sự thật.

Rất mong trong tương lai được quý cử tọa AX quan tâm đóng góp thêm nữa. Trân trọng kính chào!

Trước khi hết lời, Tây Ðộc xin hứa trong một dịp khác, sẽ đóng góp ý kiến của mình ở những phần tiếp theo của câu hỏi mà quý cử tọa AX đã đặt ra

- Tam Tiểu Thư: Bây giờ em xin mời một
quý cử tọa khác. Em xin chào quý cử tọa Minh quang, dường như em đã được gặp quý cử tọa rồi, nhưng trí nhớ của em kém quá, mong quý cử tọa thứ lỗi. Em xin nhắc lại toàn bộ vấn đề mà quý cử tọa đưa ra. Sau đó em xin phép quý cử tọa cho em được đóng góp ý kiến.

- Minhquang (16:23 Ngày 27 tháng 7 năm 2013 @ Cuộc họp báo 12

"Chào Tam Tiểu Thư,
Khi xem cuộc họp báo lần 9, TTT có nêu ra … tính hữu dụng của cách tập luyện Tịnh Ðộ Tông:

Nếu chúng ta:
1. Niệm hồng danh Phật Ai Di Ðà bằng Tâm.
2. Tập trung tư tưởng để nghe những âm thanh này
3. Trong Tâm quán tưởng vị Phật A Di Ðà ở đằng trước mặt.
thì chúng ta đã triển khai đúng mức công thức bất tử:

"Tư cách chú Tâm vào một vật duy nhất ở đằng trước mặt". Đây là công thức định nghĩa Chánh Định …

Cách tập luyện này rất hay, nhưng TTT có thể cho biết thêm khi đã đạt được công thức Chánh định như trên thì mình phải làm gì tiếp theo để quán xét một việc gì đó hay một người nào đó (việc này có lợi cho tu tập của nhiều người). Câu trả lời sẽ giải đáp một số thắc mắc hiện nay đang trao đổi.

Rất cám ơn TTT

minhquang"

- Tam Tiểu Thư: Kính thưa quý cử tọa Minh Quang,

Ít nhất đến giờ phút này, theo ý kiến chủ quan của em, thì từ cổ chí kim, từ Ðông sang Tây, người ta định nghĩa Chánh Định là "Tư cách chú Tâm vào một vật duy nhất ở đằng trước mặt". Có lẽ đó là một định luật của thế giới tự nhiên. Muốn làm cho luồng tư tưởng, Luồng Tâm Thức đứng dừng lại, thì có lẽ không có cách nào khác. Do đó, ở bất cứ đâu, ở bất cứ thời đại nào, người ta cũng đều có một nhận xét tương tự.

Kính thưa quý cử tọa Minh Quang,

Ðặt giả thuyết là
quý cử tọa hoặc ai đó, đã đạt được trạng thái vô cùng quý hiếm là Tốc Hành Tâm xuất hiện. Cho dù tu theo bất cứ trường phái nào thì đây cũng là một bước tiến nhỏ cho cuộc đời tu Thiền Định, nhưng là một bước tiến lớn cho sự tiến hóa.

Quý cử tọa đã nghĩ: Có thể bước tiếp theo sẽ là quán xét một việc gì đó hay một người nào đó, nhưng theo thiển ý của em, đây là một công việc làm quá sớm, có lẽ không phù hợp.

Căn cứ vào tài liệu Vi Diệu Pháp thì nếu đạt được trạng thái này (phải nói là trạng thái cực kỳ quý hiếm), mà ít ai đạt được, thì có lẽ việc nên làm là nâng niu bảo trì và tìm cách phát triển. Công việc sẽ diễn tiến như sau:

Người tu Thiền Định cố gắng làm sao duy trì trạng thái này càng lâu càng tốt, làm sao tăng cường được cường độ của Định Lực, làm sao tăng cường được cao độ của Định Lực. Đó là công việc cần thiết của người tu Thiền Định. Muốn thực hiện công việc này, thì từ lý thuyết đến thực hành là chúng ta triển khai hai Thiền Chi là: Tầm Tứ.

Điều này có nghĩa là chúng ta cố đi tìm Đối Tượng và cố duy trì Đối Tượng đó không để bị mất đi. Trên thực tế, đối với người thiếu kinh nghiệm tu Thiền Định thì việc Đối Tượng Quán Tưởng mất đi, không tìm được, không duy trì được là một điều tất nhiên. Nếu thực hiện thành công được công việc này, thì hệ quả sẽ là Tâm có nhiều khả năng đứng im lâu hơn, Thiền Chi Tầm từ từ không cần thiết lắm. Lý thuyết là như vậy, nhưng thực tế thì trong Tâm chúng ta như có hàng trăm con sói cấu xé đánh nhau chứ không đơn giản. Rất mong quý độc giả đọc lại bài kể câu chuyện 2 con Sói của quý cử tọa Tư Thóc.

Người tu Thiền Định muốn đi con đường tiến hóa, thì phải cố làm sao giảm thiểu các Tâm, các Sắc, Nghiệp Lực … Rất nhiều người tu Thiền Định không ngờ rằng: Kể cả Thiện Tâm, Thiện Nghiệp, nếu xét về con đường tiến hóa thì cũng là một trở ngại vì nó mở cửa cho con đường Sanh Tử Luân Hồi … Trong cuộc họp báo hạn hẹp hôm nay, chúng ta chỉ có thể nêu ra những nét chính. Người tu Thiền Định khi đạt được trạng thái mà quý cử tọa gọi là "đạt được công thức Chánh Định" thì còn có quá nhiều công việc để làm, còn có vô số buổi tu Thiền Định đang chờ đợi mình ở đằng trước.

Nếu ai đó quan niệm rằng vào lúc này nên "quán xét một việc gì đó hay người nào đó" thì không khác gì chúng ta đưa một vũ khí sát thương, một con dao bào có tẩm mật cho một em bé sơ sinh … Hậu quả ra sao chắc quý cử tọa đều có thể đoán trước. Chúng ta có thể mô tả đó là trò chơi của một em bé "Liếm mật trên lưỡi dao bào". Trò chơi của một người trưởng thành là "Giải khát bằng rượu độc".

Kính thưa quý cử tọa Minh Quang,

Chúng ta còn có quá nhiều lớp Thiền Định, còn quá nhiều Cảnh Giới, còn quá nhiều các Tâm, các Sắc, các Nghiệp Lực … cần phải trải qua. Món nợ Phiền Não là món nợ dai dẳng của tất cả các Thực Thể. Ai chẳng mong có ngày các Phiền Não sẽ khô cạn. Đó là một tương lai hứa hẹn đang chờ bạn, chờ tôi ở phía trước. Xin chân thành cám ơn quý cử tọa Minh Quang.

Phần trình bày trên đây cũng xin gởi tới quý cử tọa Tâm Như.

- Tam Tiểu Thư (với ánh mắt linh động và hiền lành, với giọng nói dịu dàng và mời mọc): Em xin mời quý cử tọa 2 ì ạch.

- 2 ì ạch nói: @ Cuộc họp báo 12


"(Cái đoạn này rồi mới tới cái đoạn ghi (tt) nghen cô 3T, tui soạn bên Word rồi copy qua ... thiếu cái đoạn này, muốn sửa lại nhưng không biết phải làm sao, đúng là dốt thiệt, mong cô thông cảm). 


Nhưng, lại nhưng nữa, tui đã nhờ các Nhí bên hstđ đưa “cửu huyền thất tổ” hai bên nội ngoại của phía tui, phía vợ tui, phía anh rể, chị dâu … tùm lum phía, đặt biệt là ông già của tui nữa, về Tịnh độ và được thông báo là đã Thượng Phẩm Thượng Sanh hết rồi. Đó, cái hụt hẫng và đang lo lắng của tui chính là cái ni đây đấy cô 3T (chớ còn cái vụ tu thì nếu tu sai cách thì tu lại chớ ăn nhậu gì, còn tu dài dài nhiều kiếp nữa, không việc gì phải lo xa). Cô 3T cũng có cha, có mẹ chắc cô hiểu được nỗi lòng của tui; cái cõi Tịnh độ không có, ông Phật Adiđà cũng không tuốt, thế mà 2 năm qua tui không còn hương khói cúng kính cho ông bà và ba tui nữa, thiệt có còn cái bất hiếu nào hơn cái bất hiếu này không hả trời? Thế bây giờ ông bà và ba tui đang ở đâu hả trời? Hai năm qua các vị ấy ra làm sao?"

- Tam Tiểu Thư: Trước nhất em xin kính chào quý cử tọa 2 ì ạch.

Qua ba phần đóng góp đầy nhiệt tình, sử dụng ngôn từ của máy tính ngày hôm nay một cách thành thạo làm cho em rất ái mộ. Dường như
quý cử tọa có hảo ý tin cậy tiêu cục Xuyên Vân Kiếm Pháp, điều này làm cho em rất âu lo, không biết mình có khả năng đóng góp ý kiến làm vui lòng quý cử tọa hay không. Phần đóng góp của em chắc chắn có nhiều thiếu sót, rất mong được quý cử tọa 2 ì ạch chỉ bảo những lầm lẫn, em vô cùng biết ơn.

Qua những phần comments của các
quý cử tọa, thì ở phần thứ 3 mà quý cử tọa 2 ì ạch nêu ra, dường như là "sự hụt hẫng, lo lắng" có lẽ của nhiều quý cử tọa.

Em thiết nghĩ muốn giải quyết một vấn đề gì đó, thì phải giải quyết từ tiên đề. Bộ môn nào cũng vậy, nếu không thì sanh ra trường hợp "Ông nói gà, bà nói vịt", bởi vì chúng ta thiếu việc thống nhất với nhau từ từ ngữ, khái niệm đến lý thuyết, chủ thuyết.

Có lẽ chúng ta nên trung thực với chính mình. Không thể kéo dài mãi sự ngộ nhận, sự hiểu biết lầm lẫn, tồn tại qua chiều dài 15, 16 thế kỷ. Sự thật có lẽ còn dài hơn thế nữa. Ðã đến lúc chúng ta phải nói lời chia tay với những hiểu biết sai lầm, làm tổn hại cho chính mình, tổn hại cho xã hội mà không đưa đến một kết quả nào cả.

Có một thực tế không thể phủ nhận là những cơ sở tôn giáo to lớn đã tạo nhiều gánh nặng cho con người và cho xã hội. Đó là chưa kể là đi kèm theo đó còn có những người sinh hoạt, sinh sống … mà không sản xuất gì, không tạo ra của cải vật chất, của cải tinh thần cho xã hội. Ngày hôm nay có quá nhiều thông tin cụ thể mà ai cũng có thể truy cập, trên những trang web phổ thông. Thật vậy, theo các chuyên gia thì dường như trong số các tài liệu gọi là Ðại Thừa, thì có đến 450, 550 là tài liệu ngụy tạo.

Rất mong
quý cử tọa 2 ì ạch quan tâm vấn đề nêu trên.

Nếu căn cứ vào tài liệu của Phật Giáo Nguyên Thủy thì việc này có thể giải thích như sau: căn cứ vào Tâm, Sắc, Nghiệp Lực, căn cứ vào những quy luật khách quan tự nhiên (theo Phật Giáo Nguyên Thủy thì mặc định đó là những quy luật khách quan tự nhiên). Ðể làm sáng tỏ vấn đề em xin minh họa về quy luật khách quan tự nhiên để chúng ta cùng thống nhất.

Quy luật khách quan tự nhiên là những quy luật của thế giới tự nhiên chi phối tất cả, không chừa bất cứ ai.

Thí dụ: Định Luật Tương Tác Hấp Dẫn là một Định Luật đã được phát hiện cách đây mấy trăm năm. Dù bất cứ ở thời điểm nào, ở đâu, quy luật này vẫn có những hệ quả như nhau. Dù muốn hay không chúng ta phải chấp nhận là nhiệt lượng truyền từ vật nóng qua vật lạnh, hai thỏi nam châm khác dấu nhau thì hút nhau. Vận tốc ánh sáng là không đổi …

Nếu căn cứ vào phần giải thích ở trên, thì theo quan điểm Phật Giáo, một thực thể nào đó cụ thể như con người khi chết đi sẽ ra sao, lệ thuộc vào yếu tố sau đây:

1. Cấu tạo Tâm, cấu tạo Sắc, tình trạng Nghiệp Lực …
2. Bị định luật Tương Ưng chi phối dù muốn hay không.
3. Bị định luật Nhân Quả chi phối dù muốn hay không.
4. Bị Nghiệp Lực chi phối dù muốn hay không.
5. Còn có thể nhiều yếu tố khác mà chúng ta chưa hiểu rõ hoàn toàn.

Họ đi về đâu? ở đâu? tình trạng ra sao? ... Tất cả những câu hỏi đó sẽ bị những yếu tố nêu trên quyết định.

Em xin nhắc lại, Phật Giáo có đề cập tới một số định luật mà họ cho là những quy luật khách quan của thế giới tự nhiên. Điều đó đồng nghĩa là chúng ta không thể tác động, hay thêm bớt. Chỉ trực tiếp cá nhân nào đó nếu họ muốn có sự thay đổi, thì chính bản thân họ phải phấn đấu. Do đó, Phật Giáo Nguyên Thủy đã có một phát biểu: "Thần Thông không liên quan đến nhân quả".

Ðể minh họa tình trạng này giúp cho mọi người hiểu rõ thêm những quy luật khách quan của thế giới tự nhiên như: Nhân Quả, Tương Ưng … người ta hay kể hai câu chuyện sau đây. Em chắc chắn ai quan tâm tới Phật Giáo đều biết rất rõ câu chuyện này, nhưng em vẫn nhắc lại để mong mọi người có dịp suy nghĩ là chúng ta có thể làm gì cho thân nhân chúng ta khi thân nhân chúng ta đã qua đời.

Ðúng như quý cử tọa 2 ì ạch nói, ai chẳng thương tiếc khi thân nhân thân thương của mình qua đời. Ai cũng mong muốn làm một cái gì đó để cải thiện đời sống của thân nhân mình ở bên kia thế giới. Người ta chẳng tiếc công, tiếc của cho những việc làm mà họ tin là có lợi cho thân nhân đã quá cố.

Chắc chắn mọi người đều biết về một bằng chứng cụ thể để đời, đó là lăng mộ của một vị Hoàng Hậu đã chết. Vị vua quá thương tiếc vợ mình đã làm nên một kỳ tích mà ngày nay người ta đã gọi đó là đệ nhất trong 7 kỳ quan thế giới: Ngôi đền Taj Mahal ở Ấn Độ.


Taj Mahal

Theo truyền thuyết (tất nhiên không thể là lịch sử được), câu chuyện sau đây mang tính chất điển hình, mà có lẽ nặng về giáo dục:

Mẹ ruột của ngài Sakya Muni khi bỏ xác thì ở cõi trời Ðao Lợi. Theo tinh thần Phật Giáo thì đây là một cõi trời Dục Giới rất thấp, rất gần với Cảnh Thế Gian của con người. Rất có thể Ngài Sakya Muni, nói theo kiểu thế gian ngày hôm nay là quen biết lớn, muốn giúp mẹ lên một Cảnh Giới cao hơn (người con nào có một lương tâm lành mạnh lại chẳng muốn mẹ mình như vậy chứ!) thì cũng chẳng làm gì được. Tại sao? Dù Thần Thông quảng đại, phép tắc nhiệm màu … nhưng Ngài Sakya Muni không thể chống lại được những định luật khách quan của thế giới tự nhiên. Thật vậy, giả thuyết là Ngài có dùng Thần Thông để đưa mẹ mình lên một cảnh giới cao hơn, nhưng do cấu tạo Tâm, Sắc, Nghiệp Lực của mẹ Ngài không tương thích, không phù hợp, thì cũng tự động rớt xuống cảnh giới thấp hơn. Ngài Sakya Muni hiểu rõ những Quy Luật Khách Quan hơn ai hết, thế nên Ngài không cúng kiến, không nhờ vả ai, mà tìm cách dạy cho mẹ ruột mình tài liệu Vi Diệu Pháp. Khi mẹ ruột của Sakya Muni hiểu được Vi Diệu Pháp, do sự hiểu biết về Vi Diệu Pháp, Tâm, Sắc, Nghiệp Lực … tự thay đổi. Vì sự thay đổi này có tính cách tích cực và chủ động, bà tự động một cách cơ học tiến lên những cảnh giới tương thích.

Một trường hợp khác cũng được coi là huyền sử là Ngài Mục Kiều Liên. Theo em nghĩ huyền thoại này cũng nặng tính cách giáo dục, minh họa tính cách tích cực của trường phái Phật Giáo. Dường như một nghịch lý, Ngài được mô tả như đệ nhất Thần Thông, nhưng mẹ ruột của mình vẫn ở Địa Ngục. Ðiều này nhắc nhở mọi người nên hiểu, không ai có thể giúp chúng ta, dù ở bất cứ ở Cảnh Giới nào, dù là Cảnh Người, Cảnh Thiên … Không có Kinh kệ nào, không có Ấn Chú nào, không có đồ vật cúng dường nào, không có một ai, (kể cả Mục Kiều Liên, Phật Sakya Muni) có thể giúp cho chúng ta, ở bất kỳ đâu, bất kỳ thời điểm nào, bất kỳ cái gì … Em thiết nghĩ nếu ai tự cho mình là trường phái Phật Giáo thì nên cân nhắc lại việc cho rằng mình có thể giúp người bằng sự trao đổi nào đó, mà có thể xóa sạch Nhân Quả, Nghiệp Lực … bất chấp Định Luật Tương Ưng, Định Luật Nhân Quả.

Do đó, trường phái nào mà bất chấp tất cả những yếu tố nói trên, thì liệu chúng ta có thể coi là thuộc trường phái Phật Giáo của ngài Sakya Muni hay không? Thực tế, phải gọi đó là một trường phái nào khác, chẳng liên quan gì tới trường phái của Ngài Sakya Muni. Nếu muốn thì cũng có thể gọi đó là trường phái Nhái trường phái Phật Giáo Nguyên Thủy.

Em hy vọng câu trả lời của em cũng đã đóng góp được một phần nào những gì quý cử tọa quan tâm.

Em xin trân trọng kính chào
quý cử tọa 2 ì ạch, em xin trân trọng cảm ơn quý cử tọa đã quan tâm theo dõi.

Trong khi đang trao đổi với các
quý cử tọa, chiếc máy fax ở góc phòng phát ra tín hiệu nhận fax. Tam Tiểu Thư cầm trên tay tài liệu mới nhận và thông báo cùng quý cử tọa đó là ý kiến đóng góp của một quý cử tọa có quý danh là Hoa Sen Trăm Ðóa. Cô chăm chú đọc, sau đó thông báo rằng:

Dường như
quý cử tọa hoasentramdoa đã trả lời thay cho em nhiều vấn đề, mà nhiều quý cử toạ khác đang thắc mắc. Em xin phép được đưa lên nguyên văn ý kiến của chính quý cử tọa hoasentramdoa:

hoasentramdoa: @ Cuộc họp báo 12

" Một cách chủ quan, con nhận thấy rằng, người ta cũng cho quán đề mục (phương tiện) giống như của đề mục bên Phật giáo nguyên thủy nhưng mục đích (cứu cánh) thì hoàn toàn khác biệt.

Theo thiển ý con thì Đề mục, ở một mức độ thấp chỉ có nghĩa là một phương tiện cột Tâm mà thôi. Xét trên khía cạnh này thì hầu như giống nhau, nhưng khi vượt qua ngưỡng này thì nó đưa đến những vấn đề cực kỳ vi tế và quan trọng cho một hành giả với Tâm tìm cầu Giải Thoát? Tới mức độ cao này thì khi hành giả chọn đề mục là một hình ảnh của một vị Giáo Chủ cùng Chân Ngôn của vị ấy thì sẽ tạo được sự dung thông giữa cái Tâm của Hành Giả và vị Giáo Chủ này.

Bên thì tuyệt chỉ xem đề mục như là phương tiện Nhập Định mà thôi. Sau Nhập Định rồi thì tùy cảnh giới với số Tâm Sắc cấu tạo đặc biệt mà họ đổi Đề mục cho thích với luật Tương Ưng? Cùng để kích Tâm lý hành giả để tiến vào những tầng Thiền hoặc những Cảnh giới cao hơn. Với mục đích sử dụng đề mục này thì cho dù là có quán ra Linh Ảnh thì Linh Ảnh cũng chỉ là một trạng thái của hành giả đạt được khi hành đúng kỹ thuật Nhập Định mà thôi. Họ tuyệt không dùng Linh Ảnh này để học hỏi hay tin đây là Phật, Chúa, Thánh Thần gì cả ... và họ cũng chẳng mong cầu chuyện này vì họ hiểu rõ như ban ngày rằng các vị Phật, Chúa, v.v... đang ở "Santi" (nơi không có Sắc nào cả) thì sao lại có chuyện các Ngài lui lại những tầng trời thấp vậy để thể hiện qua linh ảnh và làm những công việc mà xem ra không mấy là đấng Sáng Tạo chút nào cả (chẳng hạn như: Bói tiền kiếp cho Hành Giả hoặc những người khác v.v...)

Bên kia thì người quán ra đề mục như Chấm đỏ chẳng hạn, (mà chấm đỏ lại được xem như là Đảnh của Ngài Adida) rồi từ chấm đỏ họ lại Quán lan rộng ra mái tóc, vầng trán, mắt, mũi, miệng, khuôn mặt, đầu, thân và rồi thành một vị Phật Adida 3D với mầu sắc lộng lẫy vàng chóe, chói sáng gấp 10 ngàn lần ánh mặt trời chẳng hạn, và rồi họ cũng lại dùng Ấn Chú các cái để thử linh ảnh nổi này, rồi thế là họ chắc hẩm rằng mình đã gặp Phật Adida thực sự. Thế là từ đây họ sẽ răm rắp mà vâng lời của Linh Ảnh Phật Adida này mà tu tập và hành sử như sự giáo huấn của Linh Ảnh trong việc tu tập lẫn sinh hoạt cuộc sống v.v... "


Đoạn trên đây là Breaking News em mới nhận được của CNN, em post lên để quý cử tọa rộng đường công luận.

Và đây là một thắc mắc khác cũng từ quý cử tọa hoasentramdoa: @ Cuộc họp báo 12

" Thưa cô Tam Tiểu Thư,


Lại có một việc dù chưa thấy ai đề cập nhưng con rất là thắc mắc. Trong quá trình làm quen với Phật Giáo đến nay con chưa từng nghe qua những vị đắc Thánh Quả mà lại có chữ VẠN xuất hiện ngay trước ngực? Rồi Chữ Vạn này sẽ lớn và sáng vàng chóe lên theo trình độ vị này Ngộ Đạo, chữ Vạn này có thể to đến mười mấy cm? Một điều thần bí nữa là những vị Bồ Tát lại có khả năng giúp cho những người khác có chữ Vạn hoặc lắm khi họ cho rằng vì có những nhân duyên nhiều kiếp với nhau mà họ có thể giúp cho người kia có chữ Vạn, sửa mầu chữ Vạn v.v... Lại nữa, khi Ngộ Đạo thì có triệu chứng lây lan giữa những người trực hệ như: Vợ Chồng, Cha Mẹ, anh chị em ruột, người yêu v.v... Nghe thấy mà ham, nói thật cô đừng cười nhé, lúc đầu làm con cũng muốn kiếm một đức ông bồ nào bên ấy Tu giỏi có khả năng "Chóng Mặt" khi quán Vô Thường, để hướng sái quả vị Thánh này cô ạ.

Tất cả chỉ là những suy nghĩ thật hạn hẹp của con. Mong cô chỉ dạy thêm nhé!

Kính!"


- Cử tọa Tuần báo thời trang của cõi Hữu Sắc: Thông tin mới này hơi bị hay nha Tam Tiểu Thư. Tui chợt nghĩ như vầy: Tui thấy mấy tiệm bán đồ trang sức có bán chữ Vạn này bằng vàng thiệt đàng hoàng, đeo cũng đẹp lắm. Nếu nó vừa thời trang mà vừa trí tuệ thế thì để tui viết bài lăng xê cái mốt này được không, vì đó là nghề của tui mà. Tui cũng ngưỡng mộ cô xinh đẹp và trí tuệ. Khi nào lãnh tiền nhuận bút sẽ mua tặng cô một chữ "Vạn" vàng thiệt, cô đồng ý không?

- Tam Tiểu Thư (mỉm cười): Thưa quý cử tọa Hoa Sen Trăm Ðóa, nếu tiền đề của bất cứ vấn đề gì là không có thật, người đời thường gọi là "Hàng Nhái", thì hệ quả không nói ai cũng biết cũng là
"Hàng Nhái". Em xin nhắc lại cùng quý cử tọa, dường như Phật Giáo có một Định Luật, mà em nhớ không lầm: "Cây chanh thì sanh ra quả chanh, con Mèo thì đẻ ra con Mèo" … Không thể nào một bài toán có thể đáp số đúng, đúng với thực tế, khi dữ kiện lại là những tham số không đúng. Do đó, việc quý cử tọa đưa ra có một số hay chữ vạn gì đó thì có lẽ quý cử tọa không cần phải quan tâm lắm. Em xin nhắc lại với quý cử tọa về việc chữ viết ở tại Ấn Ðộ. Lịch sử cho biết, từ ngày Phật tại thế cho đến khi nhập Niết Bàn, trong nhiều trăm năm Ấn độ không có chữ viết. Người ta cho rằng chữ viết đã du nhập Ấn Ðộ vì lý do mua bán, có lẽ để thuận tiện cho việc làm chứng từ sổ sách. Những chữ tượng hình mà quý độc giả nhắc tới đó có lẽ xuất hiện nhiều trăm năm sau này, và có thể là sản phẩm tưởng tượng thiên tài của các giáo sĩ địa phương nào đó. Vì thật sự ngày hôm nay, ngoài những kinh điển truyền thống, người ta không thể xác định được quá nhiều tài liệu ngụy tạo mà sau này chúng ta có dịp sẽ đề cập tới. Nhiều người không thể ngờ được rằng, những tài liệu căn bản của trường phái Thiền Định, của rất nhiều trường phái Thiền Định, lại có những tác giả không biết rõ là ai.

Để em chia sẻ cùng quý cử tọa một bộ kinh nổi tiếng là bộ Kinh Kim Cang (Vajrasamadhi). Chắc quý vị không bao giờ ngờ được là tác giả của bộ kinh đó là từ xứ sở của các thương hiệu nổi tiếng Hyundai Kia, Samsung, LG … dân gian thường gọi là xứ sở Kim Chi, trước tác. Từ đó suy ra, Chầy Kim Cang rất nổi tiếng cũng là made in Korea. Trước khi dứt lời, em xin có một câu nói:

"Không có gì có thể cao hơn sự thật"


Trân trọng kính chào tất cả quý cử tọa đã đến họp báo và tham gia ý kiến quý báu của mình với Tiêu Cục XVKP.





Kỹ Thuật Xuất Hồn: Xuyên Vân Kiếm Pháp 42

                   t ậ p  4 2 : 
                   . . . . . . . . . . .
                   m ô  h ì n h  m ẫ u  X u ấ t  H ồ n
                          b ằ n g  k ỹ  t h u ậ t  T h i ề n  Đ ị n h
                                                           r a  b ằ n g  k ê n h  h o à n  t o à n  ý  t h ứ c


Kính thưa quý độc giả,

Không lâu trước đây, CTR có hứa sẽ post một bài chi tiết về diễn tiến của "Kỹ Thuật Xuất Hồn". Theo suy nghĩ của CTR, bài viết này là một trong những bài đặc sắc nhất. Những gì được viết ra không đi theo lối mòn của những người chuyên nói lý thuyết, mà nó mô tả sống động về tiến trình xuất hồn của “người thực việc thực”. CTR tin rằng nếu quý vị là người thực hành Thiền Định lâu năm và quan tâm luyện tập xuất hồn, sẽ nhanh chóng nhận ra chiếc chìa khóa thực hành. Cũng theo dự đoán của Cuốn Tạp Thư, sẽ có nhiều người thành công khi thực hành theo “Bí Kíp” này.

Những người tiên phong mở đường đã mất cả cuộc đời mình để tìm ra lối đi và đã thử đi thử lại phương pháp này nhiều lần trước khi quyết định để CTR chia sẻ cùng quý độc giả.

CTR xin chắp tay đảnh lễ và vô cùng biết ơn người đã khai phá con đường và để lại bản đồ cho hậu thế!

Kính chúc quý độc giả tập luyện thành công, tự mình làm chủ sống chết, vượt thoát khổ đau của kiếp người.

Xin cảm ơn quý vị.


p/s: Nếu quý vị đang thực hành và có bất cứ thắc mắc nào, xin vui lòng chia sẻ kinh nghiệm cùng CTR. Quý vị có thể post bài chia sẻ trực tiếp vào phần "Comments" hoặc gởi thư vào hộp thư: vidieuphapctr@gmail.com

 
.·:*´¨¨`*:·..·:*´¨¨`*:·.


- Tam Tiểu Thư: Thời gian trôi qua nhanh quá. Mới đó mà Tiêu Cục XVKP đã thực hiện 12 cuộc họp báo rồi. Nói thiệt với ông là càng ngày tôi càng thấy chuyện luyện tập Xuất Hồn là một công việc rất quan trọng và thực tế cho con người. Hôm nay tôi muốn hỏi ông thêm chi tiết của Kỹ Thuật Xuất Hồn này, ông đồng ý chứ?

- Ông Tổng Quản: OK. Nếu muốn hiểu về kỹ thuật này, có hai vấn đề chủ chốt mà cô cần tập trung chú ý:

1. Giải quyết vấn đề cái Tôi.
2. Sử dụng Kỹ Thuật Thiền Định để Xuất Hồn hoàn toàn có ý thức (fully awareness).

- Tam Tiểu Thư: Tôi có cảm giác là ông hay lập đi lập lại chuyện Cái Tôi này. Có lẽ là do ông sợ tôi chê ông là tà đạo do ông đi ngược lại chuyện Vô Ngã của Phật Giáo hay sao ấy.

- Ông Tổng Quản (mỉm cười): Tôi hay nhắc lại vấn đề cái Tôi, vì nó là một trong những yếu tố then chốt đưa đến thành công hay thất bại trong việc Xuất Hồn. Rất mong Tam Tiểu Thư và quý độc giả không nghĩ là CTR có ý định quảng bá, bảo vệ chủ thuyết Nhân Thể Luận, còn gọi là thuyết Hữu Ngã (có một cái Tôi thường xuyên). Trên thực tế thuyết Hữu Ngã đã xuất hiện và có mặt song song với thuyết Vô Ngã (không có một cái Tôi thường hằng). Trong thời gian này còn phải kể đến thuyết Duy Tâm và Duy Vật. Nhiều học giả cho là Ngài Sakya Muni chủ trương thuyết Trung Dung, nhưng cũng có học giả cho là Ngài Skya Muni chủ trương thuyết Vô Ngã.

- Tam Tiểu Thư: Ông nói đúng rồi. Chính quan điểm này đã làm cho ai đó tự cho mình là phật tử, khi tu Thiền Định cũng như tập Xuất Hồn trở nên lúng túng.Thật vây, là một tín đồ Phật Giáo tất nhiên tin một cách tuyệt đối vào: Vô Thường, Vô Ngã và Khổ Não.

- Ông Tổng Quản: Chúng ta hãy nhìn vào thực tế. Nếu bây giờ mình quyết định tu Thiền Định, quyết định luyện tập Xuất Hồn mà không công nhận tiền đề là có một cái Tôi; thì các thao tác, diễn tiến sẽ trở nên lúng túng. Cô có nhận ra một điều là chúng ta rất ít thấy những kết quả tích cực được tường thuật từ những người tu Thiền Định Phật Giáo ở VN cũng như trên thế giới nói chung không?

- Tam Tiểu Thư: Ông thì hay nói chuyện kiểu hàn lâm bác học. Nếu nói theo dân gian thì tôi nghĩ chẳng ai quan tâm là tu trường phái nào. Quan trọng là nếu ai đó tu mà có những kết quả tích cực, thì đầu tiên là những người tu khác chắc chắn sẽ tìm đến nhờ cậy, sau đó là người dân giã cũng sẽ tìm đến vì ái mộ hay nhờ vả.

- Ông Tổng Quản: Nói một cách kinh điển, chỉ cần đắc Tứ Thiền Hữu Sắc là đã có những khả năng khác thường. Nhưng thực tế, cũng có những người bỏ công, bỏ của, bỏ thời gian … đi tìm những vị tu tịnh thất trong rừng sâu núi thẳm, vì nghe dân gian đồn đãi đã tịnh thất 9, 10 năm, thậm chí không giao tiếp với ai cả. Có những vị tu mà khi muốn gặp còn khó hơn nữa. Cô phải đi qua nhiều chốt kiểm soát thật sự, bị phỏng vấn nhiều lần … mà vẫn có thể bị từ chối không tiếp. Những hiện tượng nói trên làm cho người ta phải suy nghĩ rằng, chủ nghĩa Phật Giáo có cái gì đó đã biến dạng trên thực tế.

Qua những bài viết trên, chúng ta đã có cơ hội quan sát các hiện tượng: Giấc mơ, cận tử, tái sinh … ở bất cứ hiện tượng nào, cũng thấy sự hiện diện của cái Tôi không thay đổi, di trú từ đời này qua đời khác. Những cái Tâm là một thành phần của cái Tôi, có lẽ cũng không thay đổi. Người Trung Quốc thường nói: "Non sông dễ đổi, bản tánh khó dời". Câu nói này phản ánh kinh nghiệm thực tế về cái Tâm và tính cách thường hằng của cái Tôi.

- Tam Tiểu Thư: Tôi đang rất tò mò về chuyện xuất hồn mà ông đang đề cập. Ông có thể mô tả một mô hình xuất hồn cho tôi nghe được không? Ý tôi nói là những người đã thực hành xuất hồn thành công thì họ đã tự thuật lại diễn tiến, trình tự, thao tác của chính mình trong việc xuất hồn như thế nào?

- Ông Tổng Quản: Sau đây chúng ta thử xem một tài liệu tự thuật về diễn tiến Kỹ Thuật Thiền Định để tạo ra hiện tượng Xuất Hồn nhé.


.·:*´¨¨`*:·..·:*´¨¨`*:·.


Hôm nay là một buổi công phu.
Nhật ký một buổi thực tập Thiền Định như bao nhiêu lần khác.
Chỉ khác một điều là:
Tôi sẽ sử dụng Kỹ Thuật Thiền Định để tạo ra hiện tượng Xuất Hồn.

Ðầu tiên là phải Nhập Định
được. Tôi sử dụng công thức quen thuộc và duy nhất là:  
"Chú tâm vào một vật duy nhất"

(sau khi đã điều thân, có nghĩa là chọn một vị thế nào phù hợp nhất, thư giãn nhất
đối với tôi lúc bấy giờ, rồi Chú Tâm vào điều hòa hơi thở nhẹ nhàng).

 


Tôi chọn Đối Tượng để Quán TưởngNgôi Sao 6 cánh
(có nghĩa là 2 hình tam giác ngược chiều nhau tạo ra ngôi sao 6 cánh)

1. Chú Tâm vào Đối Tượng này bằng trí tưởng tượng,
2. Tập trung vào Đối Tượng này mạnh mẽ liên tục,
3. Tôi cố nhìn rõ đối tượng này và cố kéo dài thời gian nhìn thấy đối tượng này.
4. Tôi biếttôi đang sử dụng hai chi Thiền:
* Tầm: Là đi tìm, và 
* Tứ: Là giữ gìn và
trau chuốt Đối Tượng.
5. Liên tục tăng cường độ chú Tâm.

.·:*´¨¨`*:·..·:*´¨¨`*:·.
 

Thế rồi tôi mất ý thức lúc nào không biết, cụ thể là bị mê một thời gian không rõ là bao lâu. Bỗng dưng tôi ý thức được hoàn toàn các vấn đề. Tâm trí đứng im không nghĩ gì cả. Điều kỳ lạ là muốn nghĩ cũng không nghĩ được. Thấy mình rất sáng suốt, nhưng lại mất khái niệm về không gian, thời gian, không biết mình là nam hay nữ. Ðây là trạng thái được gọi là
* Nhất Tâm. Tôi mừng rỡ đạt được trạng thái nhẹ nhàng thanh thoát này. Nó lan truyền trong tinh thần cũng như thể chất. Hạnh phúc này không có từ ngữ thế gian nào có thể mô tả được.

Khi tôi càng tiếp tục Tập Trung vào Đối Tượng Quán Tưởng, cường độ hạnh phúc lại càng gia tăng. Ta có thể hình dung trong một ngày thời tiết cực kỳ nóng nực, vô cùng là nóng, chúng ta như một cục bông gòn khô khan bỗng dưng được tẩm nước mát. Ta cảm thấy vô cùng dễ chịu, số nước lại càng được tẩm vào nhiều hơn nữa. Cuối cùng chúng ta tắm mát trong một chiếc hồ trong vắt dưới bóng mát bên sườn núi. Ðây là cách mô tả khá kinh điển về yếu tố * Lạc trong Sơ Thiền Hữu Sắc.


.·:*´¨¨`*:·..·:*´¨¨`*:·.
 

Tắm mát mãi trong một chiếc hồ dưới bóng mát bên sườn núi,
cảm giác này lâu ngày sẽ nhàm chán.
 Chúng ta muốn tìm nguồn hạnh phúc tế nhị tinh vi hơn nữa.
 
Ðây chính là Tiền Đề về Tư Tưởng làm cho người tu Thiền Định
 muốn tiến lên cảnh Nhị Thiền Hữu Sắc.

.·:*´¨¨`*:·..·:*´¨¨`*:·.
 

Ðịnh lực của người tu Thiền Định trong chiều hướng tích cực, càng ngày càng trở nên giàu có. Nó giống như một chủ tài khoản cứ cho thêm tiền vào mà không rút ra tiêu xài. Mặt khác yếu tố "Lạc", thú vui hạnh phúc, khoái lạc càng ngày càng trở nên tế nhị, tinh vi. Tiến trình của hai yếu tố nói trên trong chiều hướng phát triển tích cực, người ta đạt được đỉnh điểm chính là Tứ Thiền Hữu Sắc. Đây là biên giới cuối cùng của cảnh Hữu Sắc. Những cử động của tinh thần ở tại lớp Thiền Định này, người thế gian gọi đó là Thần Thông.

Thần Thông, Thần Lực phát triển ở mức độ cao nhất và việc
Xuất Hồn cũng nằm trong lớp Định này.

.·:*´¨¨`*:·..·:*´¨¨`*:·.
 

Như phần mô tả ở trên, việc đầu tiên là phải Nhập được Định.
Sau đó phải sử dụng Quán Tưởng vào một Đối Tượng Duy Nhất
để nâng cao chất lượng một lớp Định. 
Khi tôi đã hoàn tất một lớp Định nào đó, thì tôi lai  
tiếp tục sử dụng Quán Tưởng để tiến qua một lớp Định mới.

Các lớp Định càng tăng trưởng, thì các Thiền Chi càng giảm thiểu. 
Tại Tứ Thiền Hữu Sắc, kiểm soát chỉ có hai Thiền Chi là "Hỷ""Lạc",
có nghĩa là mừng rỡ vì đạt được Thiền Định, "Lạc" là hạnh phúc chế ngự tất cả.

.·:*´¨¨`*:·..·:*´¨¨`*:·.
 

Cũng như trong các lớp Định khác, tôi phải làm cho hạnh phúc của lớp Thiền này phát triển hơn, mạnh hơn nữa. Chính việc phát triển của Tâm "Lạc" này sẽ làm tan vỡ một số phần của cấu tạo Sắc Dục Giới. Thật vậy, từ 28 yếu tố Sắc của cảnh Dục Giới, nay cấu tạo Sắc của tôi chỉ còn 18 đến 23. Tại sao lại có con số này? Vì tôi đang ở giữa ngưỡng cửa của Sắc Giới và Vô Tưởng Định. Tôi không còn nhu cầu thèm ăn, khát nước, không còn nhu cầu tình dục, dường như tiến trình sinh học trong cơ thể vận hành trong trạng thái cầm chừng.

.·:*´¨¨`*:·..·:*´¨¨`*:·.
 

Trong trạng thái ngập tràn hạnh phúc và niềm vui do đỉnh điểm của lớp Tứ
Thiền Hữu Sắc mang lại,
 Tôi biết rõ là Tôi đang ở trong cơ thể vật lý.
Trong lúc đang ở trong cơ thể vật lý, thì ...

 TÔI nghĩ như thế này,
 TÔI Tập Trung vào suy nghĩ như thế này,
 TÔI liên tục Nghĩ như thế này:
TÔI NGHĨ là TÔI hiện hữu đối diện với thân xác vật lý,
khoảng cách là 2, 3 thước.

.·:*´¨¨`*:·..·:*´¨¨`*:·.
 

Cho đến một lúc nào đó, Tôi biết là Tôi đang hiện hữu đối diện với thân xác vật lý,
 Tôi tiếp tục Tập Trung, Quán Tưởng hình dung một cách mạnh mẽ.
 Hiện tượng đối diện với thân xác vật lý, càng ngày càng trở nên rõ ràng.
 Ý thức về việc tôi đối diện thân xác vật lý, càng ngày càng mạnh mẽ
 và kéo dài lâu hơn. Cho đến một lúc tôi không cần phải cố gắng, thì
 Tôi vẫn thấy mình đối diện với thân xác vật lý.

 .·:*´¨¨`*:·..·:*´¨¨`*:·.

 


 - Tam Tiểu Thư: Ông diễn tả mô hình xuất hồn cực kỳ sống động. Thật là hay quá. Nhưng ông cho tôi hỏi làm cách nào để ông khẳng định chính xác là ông đã ra khỏi thân xác? Biết đâu đó chỉ là do ông tưởng tượng thôi?

- Ông Tổng Quản: Tôi nhận biết là tôi ở ngoài thân xác vật lý là nhờ vào chiều không gian của tôi và thân xác vật lý ngược chiều nhau. Chính điều này làm tôi tin tưởng là tôi đã ở ngoài thân xác vật lý, vì chiều không gian của tôi và thân xác vật lý đã khác nhau.

Tam Tiểu Thư ngồi yên lặng. Vào năm cuối cùng trong cuộc đời vĩ đại của Sakya Muni, tại điện thờ Capala, thành Vaishali, đức Phật đã tuyên bố: "Các Tỳ-kheo, đây là lời Ta nhắn nhủ các ngươi. Các Hành là Vô Thường. Hãy tinh tấn lên để tự Giải Thoát, không lâu Như Lai sẽ diệt độ. Sau ba tháng bắt đầu từ hôm nay, Như Lai sẽ diệt độ." Hình ảnh thánh tích Kushinagar và rừng cây Sa La hoang vắng, nơi Sakya Muni nhập diệt đang tràn về trong ký ức. Giọt nước mắt của cô đã rơi xuống khu rừng Sa La trong một buổi chiều nắng tắt.


Tác giả: CTR

Ghi Chú:
Những bài viết của nhóm CTR, chỉ là sản phẩm của giả tưởng. Tuyệt đối không có bất cứ một giá trị nào, ở bất cứ lãnh vực nào. Mong quý độc giả lưu tâm!


 

Cuộc họp báo (12) Tiêu Cục Xuyên Vân Kiếm Pháp












         
          h a i  t h ể  l o ạ i Alahan
                              &   s ự  t í c h   D i  L ặ c  B ồ  T á t   .  .  .


BỐI CẢNH
Ðịa điểm họp hôm nay là trong hang động Tora Bora (tiếng anh có nghĩa là Bạch Sơn). Đây là một chuỗi hang động phức tạp nằm trong Bạch Sơn ở phía Ðông Afghanistan. Lúc trước người phương Tây cho đây là một thành trì hang động không thể thâm nhập vô được, với hàng ngàn chiến binh, nhà máy thủy điện, văn phòng, khách sạn, kho đạn, thậm chí là có cả địa đạo mà xe tăng có thể di chuyển được và có cả hệ thống thông gió. Nhưng cuối cùng Tora Bora sự thật chỉ là một hang động nhỏ, không to lớn như người ta nghĩ.
 

Lại một lần nữa, tiêu cục Xuyên Vân Kiếm Pháp phải chọn một địa điểm để phòng ngừa khủng bố.


Toro Bora

- Tam Tiểu Thư: Người phát ngôn của tiêu cục Xuyên Vân kiếm Pháp xuất hiện trong tiếng vỗ tay của cử tọa. Với vóc dáng khỏe mạnh, lanh lẹ, cô chạy lên mấy bậc thang. Thái độ tươi cười vui vẻ, nghiêm trang và thân hữu.

- Tam Tiểu Thư (với ánh mắt đôn hậu và hiền từ): Em xin kính chào toàn thể quý thể quý cử tọa. Em xin kính chào quý cử tọa có nickname là Nặc Danh (ngày 26/ 7/2013). Quý cử tọa Nặc Danh với đầy hảo ý trong tinh thần xây dựng có nêu ra ý kiến như sau: Em xin phép được nhắc lại toàn bộ vấn đề để chúng ta dễ theo dõi.
 

- Nặc danh: @ Lá thư độc giả 4: Khui Hụi

Khi mình chưa tự đạt được điều gì thì tốt nhất đừng nên nói theo kiểu "a dua" kẻo hối không kịp. Có một vài vấn đề thế này:

- 1250 đệ tử ALHAN của Ngài Thích ca Mâu Ni sao lại có Ngài Mục Kiền Liên là đệ nhất thần thông? tại sao các vị ALAHAN không có thần thông giống nhau. Vậy có phải chăng sẽ có những vị ALAHAN bị giới hạn trong cái "Thấy" của mình.

- Cái cuốn 37 Phẩm trợ đạo này là của "tiểu thừa" hay "Đại Thừa" đây mà có Ngài Bồ Tát Di Lặc (http://www.budsas.org/uni/u-37bd/37bd-00.htm).
 

- QTABT là sản phẩm của Đại Thừa nhưng CTR lại dùng để tu tập.

- Bồ Tát có phải là con đường, là lý tưởng của "Đại Thừa"... Ngài Thích Ca Mâu Ni trước khi thành Phật có phải là Bồ Tát không?”


.·:*´¨¨`*:·..·:*´¨¨`*:·.
  
Trong quý cử tọa đến tham dự họp báo hôm nay, dường như có rất nhiều vị với nhiều ý kiến rất đa dạng và phong phú. Để mang tính chất khách quan cao, em rất mong được quý cử tọa như: Bé Ba, Tư Thóc, Tây Ðộc, Tiểu Xa … vui lòng đóng góp ý kiến cho phần trình bày ở trên.

Tam Tiểu Thư (nhìn về phía đám đông với ánh mắt mời mọc và dịu dàng. Giọng cô vui mừng): À! Có đây rồi em xin mời quý cử tọa Bé Ba …
 

- Bé Ba: Theo chỗ tôi hiểu thì có lẽ (tôi chỉ nói có lẽ mà thôi), vì tôi không phải là chuyên gia chuyên viên gì cả. Phật Giáo Nguyên Thủy chia các vị A La Hán thành hai loại, theo tôi nghĩ ai đọc các tài liệu Phật Giáo đều có biết điều này. Do đó, tôi chỉ xin phép nhắc lại:

1. Là những người đã đoạn được các Phiền Não. Việc đoạn được Phiền Não này là do tư duy, do trí tuệ, vỡ lẽ được Sự Thật, chứ không phải do tu Thiền Định mà có.
2. Cũng là những người đoạn được Phiền Não (nói theo kiểu ngôn từ Phật Giáo là các Lậu đã khô cạn), nhưng bằng con đường tu tập Thiền Định từ chỉ tới Quán cũng vỡ lẽ ra Sự Thật Vĩnh Hằng.

Căn cứ vào tài liệu Vi Diệu Pháp, thì người ta có thể giải thích như sau:

- Thể loại A La Hán số 1: Tất nhiên không thể có Thần Thông vì không đắc Thiền Định. Không có một tiến trình về Thiền Định, thì tất nhiên các Tốc Hành Tâm (Javana) không thể có được. Mà không có Tốc Hành Tâm thì tất nhiên là không có Thần Thông.

- Thể loại A La Hán số 2: Thì do tu Thiền bất cứ trường phái nào. Có thể do kỹ thuật, do tình cờ, hoặc do một lý do nào khác nữa, nếu tiến trình Thiền Định diễn tiến qua những bước tất yếu của những sát na Tâm thì Tốc Hành Tâm xuất hiện. Ðây là điều kiện "cần và đủ" để Thần Thông xuất hiện.

- Cử tọa Nhật báo tiếng nói vô thinh: Xin Bé Ba vui lòng giải thích bản chất của Tốc Hành Tâm là gì?

- Bé Ba: Tôi xin phép trả lời như sau: Theo chương nói về Luồng Tâm Thức, thì Tốc Hành Tâm là những Tâm đứng im. Chính tại thời điểm này, người thực hành Thiền Định, chuyển mình qua một loại Thực Thể khác, hiện hữu ở một Cảnh Giới khác mà nó tương thích với số lượng Tâm, Sắc, Nghiệp Lực của họ. Một điều chúng ta đáng quan tâm là không phải Tốc Hành Tâm nào cũng giống với Tốc Hành Tâm nào. Nó khác nhau về chất cũng như lượng. Chính vì lý do đó mà có rất nhiều cấp độ Thiền Định khác nhau; và hệ quả là không phải Tốc Hành Tâm nào cũng là tiên đề cho hệ quả là Thần Thông. Thật vậy, nếu dễ như vậy thì Cảnh Giới nào cũng mở được Huệ Nhãn, thấy biết được quá khứ vị lai.

Vẫn theo quan điểm của trường phái Phật Giáo Nguyên Thủy, thì chỉ có Tốc Hành Tâm của Luồng Tâm Thức thuộc Tứ Thiền Hữu Sắc, mới mở được một phần nào của Con Mắt Thứ 3.

Do đó, người tu Thiền Định, nên cảnh giác với sự "Thấy Biết" của mình. Hiểu rõ được kỹ thuật, làm chủ được các Tâm, rồi cuối cùng để mở được Con Mắt Thứ 3, dường như là một công việc, có lẽ chỉ có trên lý thuyết, người ta khó tìm thấy ai triển khai được trên thực tế.

Chính vì sự khó khăn như thế này, do Tâm móng cầu, do khát vọng về Ấn Chứng, người ta đưa đến tình trạng tạo một môi trường thuận lợi cho một loại Con Mắt Thứ 3 mà bình dân gọi là Đồng Cô Bóng Cậu … Đây là một cuộc phiêu lưu đầy bất trắc, một tương lai không thể dự đoán được. Thực tế những người thuộc dạng Đồng Cô Bóng Cậu rất hay bệnh hoạn và nhất là khi lớn tuổi thì thấy cuộc sống có vẻ khó khăn.

Quay lại với người tu Thiền Định Phật Giáo Nguyên Thủy, họ sử dụng kỹ thuật Thiền Định truyền thống để làm cho Luồng Tâm Thức đứng im. Sau đó chú Tâm vào một chủ đề nào đó: Thí dụ như Giới Định Huệ, Bát Chánh Đạo, Tứ Diệu Đế … Việc chú Tâm vào một đề tài nào đó, sau khi Luồng Tâm Thức đã đứng im, thì Vi Diệu Pháp gọi là Quán.

Tóm lại, căn cứ vào Vi Diệu Pháp, người ta có thể giải thích một cách khá dễ dàng là tại sao có những vị A La Hán có Thần Thông và có những vị không có Thần Thông.

Bản chất của Thần Thông thật ra chỉ là những cử động tinh thần của những Thực Thể ở những nơi khác với Cảnh Giới con Người. Đó là giác quan của những Thực Thể không phải con Người; con Người thấy điều này là khác lạ nên gọi đó là Thần Thông. Sự thật, như phần trên đã nói, nó chỉ là cử động hay giác quan khác với con Người mà thôi.

Người ta lấy trường hợp điển hình là ngài Mục Kiều Liên mà ai cũng biết là đệ nhất Thần Thông. Ngài là đệ nhất Thần Thông nhưng không phải là ngài nhất tất cả mọi thứ. Có những người khác người ta gọi là đa văn, có trí nhớ tốt, thông minh … Nếu chúng ta bao gồm những khả năng vừa kể trên cũng là một dạng Thần Thông theo nghĩa là nó khác thường, thì còn có rất nhiều các vị khác cũng có khả năng Thần Thông vậy.

Vẫn căn cứ vào tài liệu Vi Diệu Pháp, tất cả các Thực Thể chứ chẳng phải là các vị A La Hán, đều có cấu tạo: Tâm, Sắc, Nghiệp Lực … khác nhau, do đó khả năng khác nhau là việc tất nhiên cũng chẳng phải có gì là lạ.

- Tam Tiểu Thư: Em xin nhắc lại ý kiến tiếp theo:  


"- Cái cuốn 37 Phẩm trợ đạo này là của Tiểu thừa hay đại thừa đây mà có ngài Bồ Tát Di Lạc". 
 
Em xin hân hạnh mời một quý cử tọa khác ... À! Đây rồi, quý cử tọa Tiểu Xa, em xin phép được dịch quý danh của quý cử tọa ra ngôn ngữ nước ngoài cho nó có vẻ quốc tế: Petite Citadine, City Car, Klein Auto … nếu em dịch có sai mong quý cử tọa thứ lỗi, vì em chỉ là cô gái quê mùa.

Em xin hân hạnh giới thiệu tới toàn quý vị, quý cử tọa Tiểu Xa (tiếng vỗ tay vang rần).

- Tiểu Xa:

Căn cứ theo tài liệu của tác giả là Prof. Kyoto Tokuno Ph.D, thì Phật Di Lạc được xuất hiện trong kinh Tỳ Kheo Nguyệt Quang vào thời gian Mạt Pháp. Tài liệu này tiên tri về một đấng cứu thế là Phật Di Lặc. Vị Phật này dường như có một lai lịch ở một vài trường phái Phật Giáo Ấn Ðộ. Tài liệu này rất phổ biến trong thời gian Trung Cổ ở khu vực Ðông Á. Vẫn theo tác giả nói trên thì đây là một cuốn Kinh Ngụy Tạo. Tất nhiên, ai cũng biết, tài liệu Ngụy Tạo thì các sự kiện các nhân vật … tất cả đều là Ngụy Tạo.

Ðể làm rõ vấn đề hơn về lai lịch của ngài Bồ Tát Di Lặc, chúng tôi xin đan cử một tài liệu khác. Chúng tôi không tóm lược mà đăng nguyên bản để rộng đường công luận, mời quý vị cùng xem tài liệu sau đây:


.·:*´¨¨`*:·..·:*´¨¨`*:·.

SỰ TÍCH ĐỨC DI LẶC BỒ TÁT

Phật học tạp chí Từ Bi Âm (200-204)
(Thanh Tâm sưu tầm và đánh máy)

Đức Di Lặc là một vị Phật thứ năm trong Hiền kiếp (Bốn vị Phật trong Hiền kiếp đã ra đời, kể ra sau đây: 1. Đức Cấu Lưu Tôn, 2. Đức Câu Na Hàm, 3. Đức Ca Diếp, 4. Đức Thích Ca Mâu Ni) để nối ngôi Phật Thích Ca, ra đời mà giáo hóa chúng sanh.
Nhưng số kiếp chưa đến, Ngài còn ở trên cung Trời Đâu Suất, thường hay hóa thân trong mười phương thế giới mà thuyết pháp độ sanh.
Khi Ngài ứng tích tại Song Lâm, thì tên của Ngài là: Phó Đại Sĩ, và lúc Ngài hóa thân ở Nhạc lâm, thì hiệu của Ngài là: Bố Đại Hòa Thượng.
Công việc hành tàng bước đường lai khứ trong hai khoảng chuyển sanh ấy, nào là lời phương tiện quyền xảo, nào là lời vi diệu pháp âm, làm cho người đời đều tỉnh giấc mộng mà quy đầu về Chánh giáo.
Nay xin lược thuật sự tích lúc Ngài hóa thân làm vị Bố Đại Hòa Thượng ra sau đây cho quý vị độc giả xem.
Đương thời kỳ nước Lương thuộc về đời Ngũ quí, Ngài ứng tích ở nơi Châu Minh, tại huyện Phụng hóa, thân hình khác hơn người thế tục, trán thì nhăn, bụng thì lớn, và hình vóc mập mạp.
Lúc đó không ai biết tên họ của Ngài, chỉ thấy Ngài thường mang theo một cái túi vải mà thôi, nên người kêu là: Bố Đại Hòa Thượng.
Tánh Ngài hay khôi hài và chỗ ăn và nằm ngày đêm không có nhứt định, mà Ngài đi đâu rồi cũng thấy trở về Chùa Nhạc Lâm mà trú ngụ.
Mỗi khi đi đường, Ngài thường cầm gậy Tích trượng và mang cái túi bằng vải, không khi nào rời hai vật ấy ra khỏi mình, lại có 18 đứa con nít (là lục căn, lục trần, và lục thức) nhỏ thường đeo đuổi theo một bên mà diễu cợt làm cho Ngài tức cười mãi mãi. Thường khi Ngài đi vào chốn thôn quê hay là nơi đồng ruộng, hễ ai cho những vật gì, khi Ngài ăn xong, còn dư lại bao nhiêu đều bỏ vào túi.
Lúc đi tới nơi chợ quán, thì Ngài ngồi xuống, mở túi lấy những đồ ăn dư đưa lên, kêu mấy người đứng xung quanh mà nói rằng: “Các ngươi xem coi đó là cái gì ?“ Ngài nói rồi một giây lâu bỏ đồ ấy vô túi mà mang đi. Còn có khi Ngài gặp Thầy Sa Môn đi ngang qua, Ngài ở sau vỗ lưng một cái, làm cho Thầy Sa Môn giựt mình, ngó lại mà hỏi rằng: “Hòa Thượng làm cái gì vậy ?”
Ngài liền giơ tay nói: “ Ngươi cho Ta xin một đồng tiền”.
Thầy Sa Môn thấy vậy, bèn nói rằng: “Nếu tôi hỏi một điều mà Hòa Thượng nói đặng, thì tôi cho”.
Ngài liền để cái túi xuống, chấp tay đứng một bên, rồi lấy túi mang trở lại mà lật đật quày quả đi liền. Một bửa kia, Ngài đi vào trong đám đông người, có một ông Tăng hỏi Ngài rằng: “Hòa Thượng ở trong đám đông người làm chi đó?”
Ngài trả lời rằng: “Ta đương đợi một người đến”
Ông Tăng hỏi: “Hòa Thượng đợi ai ?”
Ngài bèn thò tay vào túi lấy một trái quít đưa cho ông Tăng.
Ông vừa giơ tay ra lấy trái quít, Ngài liền thục tay lại mà nói rằng: “Ngươi chẳng phải người ấy”
Lại có một bửa, ông Tăng chợt thấy Ngài đứng bên đường gần chợ, bèn hỏi rằng: “Hòa Thượng ở đây làm chi ?”
Ngài liền đáp rằng: “Ta đi hóa duyên”.
Ông Tăng thấy vậy mới nói rằng: “Hóa duyên ở đâu nơi ngã tư như vậy ?”
Ngài trả lời: “ Ngã tư chính là chỗ Ta muốn hóa duyên”.
Ông Tăng vừa muốn hỏi chuyện nữa, thì Ngài liền mang cái túi vải rồi cười ngất mà đi một hơi.
Có một khi, ông Bạch Lộc Hòa Thượng gặp Ngài, liền hỏi rằng: “ Thế nào gọi là: cái túi vải ?”
Ngài nghe hỏi liền để túi xuống, rồi khoanh tay mà đứng.
Ông Bạch Lộc Hòa Thượng lại hỏi rằng: “Công việc của cái túi vải ra làm sao ?”
Ngài liền mang túi mà đi, không trả lời chi hết.
Có một bửa kia, ông Bảo Phước Hòa Thượng gặp Ngài hỏi rằng: “Thưa Ngài! Duyên cớ tại sao mà xưa Đức Tổ Sư ở bên Tây phương qua đây là có ý gì ?”
Ngài nghe hỏi liền để cái túi vải xuống, rồi đứng tự nhiên.
Ông Bảo Phước Hòa Thượng lại hỏi nữa rằng: “ Chỉ như vậy, hay là còn có cái gì nữa hay không ?”
Ngài nghe hỏi như thế, bèn lấy túi vải mang trở lại mà đi, không hề trả lời.
Từ đó về sau, hễ Ngài đi đến đâu, thì người ta tranh nhau mà chận đón và níu kéo, đặng mời Ngài vào nhà, chớ không cho đi luôn. Bởi vậy cho nên trong các quán rượu và tiệm cơm, người người tha hồ ăn uống no say, không có chút gì nhàm chán, vì Ngài vào đâu thì buôn bán đắt đến bội phần.
Lúc nào gặp trời mưa, thì tản sáng Ngài ngủ dậy mang guốc cao gót, đi ra nằm ngửa trên cái cầu to, co chưn lại dựng hai bắp vế lên, thì ngày ấy nắng. Còn khi nào trời nắng, mà Ngài mang đôi dép cỏ đi ra ngoài đường, ngày ấy trời lại mưa.
Thường bửa Ngài hay tới nhà một nông phu kia mà ăn cơm. Có một hôm người vợ tên ấy thấy vậy nổi giận mà rầy rằng: “Đương lúc lo việc ruộng nương rộn ràng không xiết, mình có công đâu mà nuôi lão Hòa Thượng điên đó hoài! “
Ngài nghe nói mấy lời ấy, liền đem cơm đổ dưới gốc cây dâu ở bên nhà rồi bỏ đi.
Cơm ấy tự nhiên hoàn lại trong nồi của người nông phu. Hai vợ chồng thấy vậy rất kinh, bèn cùng nhau đi kiếm Ngài, rồi lạy lục mà xin sám hối.
Có một khi, đương buổi mùa hạ, khí trời nóng nực, Ngài cởi quần áo để trên bờ mà xuống khe tắm.
Lũ trẻ khuấy chơi, bèn lén lại lấy cả áo quần. Đương lúc tắm, Ngài thấy vậy thì lật đật để mình trần truồng mà rượt theo bọn con nít. Mấy người ở trên bờ xúm nhau lén coi , thì thấy âm tàng của Ngài như trẻ nhỏ vậy.
Gần chỗ đó có tên Lục Sanh, nghề vẽ rất tinh xảo. Người ấy thấy Ngài, bèn vẽ một bức tượng in hệt mà dán tại Chùa, nơi vách nhà Đông.
Bửa nọ Ngài đi ngang qua bên vách, thấy tượng ấy liền khạc nhổ rồi bỏ đi.
Khi Ngài ở tại xứ Mân Trung, có một người cư sĩ họ Trần, thấy Ngài làm nhiều việc kỳ thần, nên đãi Ngài rất cẩn trọng.
Lúc Ngài từ giã ông Trần cư sĩ mà đi qua xứ Lưỡng Chiết, ông muốn rõ tên họ Ngài, bèn hỏi rằng: “Thưa Hòa Thượng! Xin cho tôi biết họ Ngài là chi, sanh năm nào, tháng nào, ngày nào, giờ nào, và xuất gia đã bao lâu rồi ?”
Ngài đáp rằng: “Ta tỏ thiệt cho ngươi rõ rằng Ta chính là họ Lý, sanh ngày mùng tám tháng hai. Ta chỉ biểu hiệu cái túi vải này mà để độ đời đó thôi. Vậy ngươi chớ tiết lộ cho ai biết”.
Ông Trần cư sĩ nghe nói như vậy, bèn thưa rằng: “Hòa thượng đi đâu, nếu có ai hỏi việc chi thì Ngài trả lời làm sao cho hợp lý, chớ tùy thuận theo người thì không khỏi bàng nhơn dị nghị tiếng thị phi.

Ngài bèn đáp một bài kệ rằng:
Ghét thương phải quấy biết bao là,
Xét nét lo lường giữ lấy ta;
Tâm để rỗng thông thường nhẫn nhục,
bửa hằng thong thả phải tiêu ma;
Nếu người tri kỷ nên y phận,
Dẫu kẻ oan gia cũng cộng hòa;
Miễn tấm lòng này không quái ngại,
Tự nhiên chứng đặng “Lục ba la”
Ông Trần cư sĩ lại hỏi rằng: “Bạch Hòa thượng!
Ngài có pháp hiệu hay không ?”
Ngài liền đọc bài kệ mà đáp rằng :
Ta có cái túi vải,
Rỗng rang không quái ngại;
Mở ra khắp mười phương,
Thâu vào Quan tự tại.
Ông Trần cư sĩ hỏi rằng: “Hòa thượng đi đây có đem đồ hành lý hay không?”
Ngài đáp bài kệ :
Bình bát cơm ngàn nhà,
Thân chơi muôn dặm xa;
Mắt xanh xem người thế,
Mây trắng hỏi đường qua.
Ông Trần cư sĩ thưa: “Đệ tử rất ngu, biết làm sao cho đặng thấy tánh Phật”.

Ngài bèn đáp bài kệ:
Phật tức tâm, tâm ấy là Phật,
mười phương thế giới là linh vật;
Tung hoành diệu dụng biết bao nhiêu,
Cả thảy chẳng bằng tâm chơn thật.
Ông Trần cư sĩ thưa rằng: “Hòa thượng đi lần này nên ở nơi chùa, chớ đừng ở nhà thế gian.
Ngài bèn đáp bài kệ rằng:
Ta có nhà Tam Bảo,
Trong vốn không sắc tướng;
Chẳng cao cũng chẳng đê,  
Không ngăn và không chướng;
Học vẫn khó làm bằng,
Cầu thì không thấy dạng;
Người trí biết rõ ràng,
Ngàn đời không tạo đặng;
Bốn môn bốn quả sanh,
Mười phương đều cúng dường.
Ông Trần cư sĩ nghe bài kệ lấy làm lạ, liền đãnh lễ Ngài mà thưa rằng: “Xin Hòa thượng ở nán lại một đêm mà dùng cơm chay với tôi, đặng tỏ dấu đệ tử hết lòng cung kính, xin Ngài từ bi mà hạ cố”.
Đêm ấy Ngài ở lại nhà Trần cư sĩ. Đến khi đi, thì Ngài viết một bài kệ dán nơi cửa:
Ta có một thân Phật,
Có ai đặng tường tất;
Chẳng vẽ cũng chẳng tô,
Không chạm cũng không khắc;
Chẳng có chút đất bùn,
Không phải màu thể sắc;
Thợ vẽ, vẽ không xong,
Kẻ trộm, trộm chẳng mất;
Thể tướng vốn tự nhiên,
Thanh tịnh trong vặc vặc;
Tuy là có một thân,
Phân đến ngàn trăm ức.

Khi Ngài đi đến quận Tứ minh, Ngài thường giao du với ông Tưởng Tôn Bá một cách rất thân mật, Ngài có khuyên bảo ông mỗi ngày trì niệm câu chú: “Ma ha bát nhã ba la mật đa”. Vì vậy người ta đều kêu ông Tưởng Tôn Bá là: Ma ha cư sĩ.
Có một ngày nọ, ông Ma ha cư sĩ cùng Ngài đồng tắm dưới khe Trường đinh. Khi Ngài đưa lưng bảo ông Ma Ha kỳ giùm, thì ông thấy nơi lưng Ngài có bốn con mắt rực rỡ chói lòa, bèn lấy làm kinh dị vô cùng. Ông liền đãnh lễ Ngài mà nói rằng: “Hòa thượng quả là một vị Phật tái thế”.
Ngài liền khoát tay bảo nhỏ rằng: “Ngươi chớ nói tiết lộ. Ta cùng ngươi ở với nhau đã ba bốn năm nay, vốn là có nhân duyên rất lớn, rồi đây Ta sẽ từ biệt ngươi mà đi, vậy ngươi chớ buồn rầu thương nhớ “.
Ngài nói rồi, bèn về nhà ông Ma Ha cư sĩ mà hỏi rằng: “Ý ngươi có muốn giàu sang hay không?”
Ông Ma Ha cư sĩ thưa rằng: “Sự giàu sang như lùm mây nổi, như giấc chiêm bao, có cái gì là bền lâu chắc chắn đâu, nên tôi nguyện làm sao cho con cháu tôi đời đời được miên viễn mà thôi”.
Ngài bèn lấy cái túi của Ngài thọc tay vào móc ra một cái túi nhỏ, một cái hộp, và một sợi dây, liền đưa cho ông Ma Ha cư sĩ mà nói rằng: “Ta cho ngươi mấy vật này mà từ biệt. Song Ta căn dặn ngươi phải giữ gìn cho kỹ càng mà làm biểu tín những việc hậu vận của nhà ngươi”.
Ông Ma Ha cư sĩ vâng lãnh mấy món ấy mà chẳng rõ được là ý gì. Cách vài bữa sau Ngài trở lại nhà ông mà hỏi rằng: “Nhà ngươi có hiểu được ý Ta hay không?”
 Ông thưa rằng: “Thưa Ngài! Đệ tử thiệt chẳng rõ”.
Ngài nói rằng: “Đó là Ta muốn con cháu nhà ngươi ngày sau cũng như mấy vật của Ta cho đó vậy”.
Nói rồi Ngài bèn từ giã mà đi liền.
Đến sau, quả nhiên con cháu của ông Ma Ha cư sĩ được vinh hoa phú quý, hưởng lộc nước đời đời. Đó là mấy vật của Ngài cho có hiệu nghiệm như vậy.
Nhằm ngày mùng ba tháng ba, năm thứ ba, niên hiệu Trịnh Minh, Ngài không tật bệnh gì cả, ngồi trên bàn thạch, gần nơi mái chùa Nhạc Lâm mà nhập diệt.
Nhắc lại khi Ngài chưa nhập diệt, có ông Trấn Đình Trưởng thấy Ngài hay khôi hài không lo sự gì cả, nên mỗi lần gặp Ngài thì buông lời cấu nhục, rồi giựt cái túi vải mà đốt.
Hễ bửa nay đốt rồi, thì qua ngày sau ông Trấn Đình Trưởng cũng thấy Ngài mang cái túi ấy như cũ. Ông nổi giận đốt cháy rụi luôn đến ba lần, cũng vẫn thấy Ngài còn mang còn mang cái túi vải đó.
Từ đó về sau, ông Trấn Đình Trưởng lấy làm lạ, nên đem lòng khâm phục Ngài không dám khinh dễ nữa.
Khi Ngài nhập diệt, thì ông Trấn Đình Trưởng lo mua quan quách mà tẩn liệm thi hài, là cố ý chuộc tội lỗi của ông ngày trước. Nhưng đến chừng đi chôn, thì người khiêng rất đông, mà cứ cái quan tài lên không nổi.
Trong bọn ấy có một người họ Đồng, ngày thường tỏ lòng tôn kính Ngài một cách rất trọng hậu, nên thấy việc linh hiển như vậy, liền vội vã mua cái quan tài khác, rồi liệm thi hài của Ngài lại. Đến khi khiêng đi, thì số người cũng bấy nhiêu đó, mà khiêng nhẹ phơi phới như bông. Ai nấy thấy vậy cũng đều kinh sợ và cung kính.
Lúc đó các người trong quận thiết lập ra một hội rất lớn, xây tháp cho Ngài ở nơi núi Phong Sơn. Núi ấy toàn là đá lởm chởm, hòn cao, hòn thấp, trong mấy hang đá đều là chỗ di tích của Ngài còn lưu truyền lại, nào là chỗ để tích trượng, nào là chỗ để bình bát, v.v..
Những chỗ sâu, chỗ cạn, chỗ lớn, chỗ nhỏ, hình tượng giống như cái bình bát, đều có nước đầy hoài, dẫu cho Trời đại hạn đi nữa, thì cũng chẳng có lúc nào khô kiệt.
Thiệt là nhiều việc anh linh hiển hách vô cùng!
 
SỰ TÍCH ĐỨC DI LẶC BỒ TÁT
(ĐỜI KHÁC)

Hồi đời Lục Triều, Đức Di Lặc lại ứng tích làm phó Đại sĩ ở tại Chùa Song Lâm một thời kỳ nữa.
Khi Ngài ra mắt Lương Võ Đế, vua liền hỏi Ngài rằng: “Xin Đại sĩ cắt nghĩa cho quả nhơn nghe làm sao kêu là : Đạo?”
Ngài liền bạch rằng: “Tâm thiệt là Đạo”, tôi xin chứng nghiệm như vầy, thì bệ hạ đủ hiểu.
Khi bệ hạ chưa lên ngự tại điện này, trong tâm lúc ban đầu chưa khởi niệm, bổn trí vẫn tự nhiên mà được diệu tịnh quang huy, sáng suốt hiện buổi nay, rực rỡ đến thuở trước, và đầy lấp tất cả cõi Thái hư, cái tịnh quang ấy muôn đời không sanh, vĩnh kiếp không diệt, chẳng phải Thánh mà cũng chẳng phải Phàm, không thúc phược mà cũng không giải thoát.
Đó là tâm thể rất mầu nhiệm và rất vắng lặng. Ngoài cái tâm không có đạo gì riêng khác, và ngoài đạo cũng không có tâm nào phân biệt nữa, vì thế cho nên mới gọi: “tâm là đạo”.
Vua Võ Đế lại hỏi nữa rằng: “Vậy chớ Đại sĩ có tôn ai làm Thầy hay không?”
Ngài bạch rằng: “Thầy thì không có ai là Thầy của bần đạo, còn tôn thì bần đạo cũng không có tôn ai, đến việc tùng sự, thì cũng không có tùng sự với người nào cả”.
Vua Võ Đế nghe Ngài nói như vậy, thì biết là một vị Bồ Tát lâm phàm, nên càng tôn trọng Ngài một cách rất đặc biệt.
Đoạn Ngài lại thưa với Vua rằng: “Bệ hạ ngày nay mà đặng hưởng điều tôn vinh như vầy, nguyên nhân cũng là một vị Bồ Tát hạ trần mà cứu thế.
Vậy xin Bệ hạ phải mở thông ý địa, nên tự lượng nơi mình, tâm để cho thanh tịnh, đừng trước nhiễm vật gì, lấy đó làm căn bản, cần nhứt phải dùng chỗ hư linh làm cơ sở, lấy sự vô tướng làm nguyên nhơn, nguyện vọng chí thành cầu cho đạt tới chỗ Niết bàn mà làm cực quả.
Nếu bệ hạ thi thố những phương pháp trị quốc, thì phải dùng chánh pháp mà sửa trị trong thế gian, và thi hành những điều nhơn đức, đặng làm cho lê dân cảm hóa.
Trong triều thì trọng dụng những người hiền tài mà trừ khử mấy kẻ cưu lòng gian nịnh, còn ngoài thì thi nhơn chánh đến kẻ quan quả, cô độc, bỏ những hình phạt trừng trị nặng nề, và ban chánh lịnh cho có nghiêm minh trật tự. Nếu Bệ hạ trị vì trong thiên hạ, thi nhơn bố đức được như thế, thì kẻ xa người gần đều gội nhuần ơn đức vô cùng vô tận. Chừng đó việc can qua phải dứt, mà trong đội ngũ lại ninh bình, thì ngôi trời được hùng tráng mà an hưởng cuộc thái bình. Nếu chánh sách thi thố được công hiệu như thế, thì Bệ hạ thiên cơ đã thần diệu, lại còn nối ngôi quốc tổ được lâu dài nữa. Đó là bần đạo hi vọng sao cho Bệ  hạ được như vậy”.
Có một ngày kia, ông Lưu Trung Thừa ngồi tại chỗ trạm dịch với Ngài, thoạt thấy có Thánh giá vừa đến, liền lật đật đứng dậy làm lễ, còn Ngài ngồi yên lặng một chỗ.
Khi Thánh giá qua khỏi rồi, ông Lưu Trung Thừa bèn hỏi Ngài rằng: “Theo ý tôi tưởng, Ngài chẳng chịu làm tôi với Thiên tử, không muốn làm bạn với Chư hầu, cớ sao mà lại ngã mạn như vậy, xin Ngài nói cho tôi rõ”.
Ngài liền đáp rằng: “Để bần đạo giải cho ông rõ. Phàm việc kỉnh mà biểu lộ ra hình tướng, thì không có tánh kỉnh, còn bề ngoài chẳng cử động sự kỉnh về lễ nghe tham bái, thì thiệt trong tâm có ẩn điều kỉnh vô giá. Bần đạo thấy Thánh giá mà động thân, thì pháp địa tự nhiên cũng rúng động. Hễ pháp địa rúng động, thì tất cả các pháp cũng chẳng an nhẫn, nếu các pháp chẳng an nhẫn, tức là không có kỉnh, nên bần đạo vẫn ngồi tự nhiên là vậy đó”.
Ông Lưu Trung Thừa nghe Ngài nói như thế, thì rất kỉnh phục.
Vua Lương Võ Đế biết Ngài là một vị Bồ Tát tái lai, nên thiết lập một chỗ pháp hội rất nghiêm trang, rồi thỉnh Ngài lên diễn kinh cho bá tánh nghe.
Khi trần thiết xong rồi, Ngài lên ngồi trên pháp tòa, lẳng lặng làm thinh được giây phút, chớ không nói một lời chi cả.
Trong đám người đến nghe kinh đó, có một vị Thái tử thấy vậy mới hỏi Ngài rằng: “Thưa Ngài! Đáng lẻ chỗ Chư Thiên nhơn cưu hội đây, Ngài phải giảng giải cho mọi người  rõ thấu lẽ chơn chánh của Phật, đặng nhờ đó mà tu học mới phải, cớ sao Ngài làm thinh mà không biện luận nghĩa lý chi, lại vội xuống pháp tọa như vậy ?”
Ngài liền trả lời rằng: “Phàm việc gì nói hay là nín, đều thuộc về Phật sự cả. Như thế có phải làm đúng theo Phật lý hay không? Vậy mà ông còn buộc tôi nói năng làm chi nữa”.
Thái tử nghe mấy lời bèn làm thinh, trong lòng càng khâm phục Ngài vô cùng.
Cách ít lâu, Ngài ra mắt vua, rồi quì xuống mà tâu rằng: “Muôn tâu bệ hạ! Bần đạo có như ý bửu châu và thanh tịnh  giải thoát, chiếu diệu rõ rệt đến mười phương. Nếu Bệ hạ chịu thọ lãnh mấy vật ấy, thì có ngày sẽ chứng đến quả Bồ đề. Vả lại các pháp chẳng phải có, mà cũng chẳng phải không, phàm vật gì thuộc về hữu tình đồng quy nơi thiệt tế . Các việc trong thế gian đều là bức tranh huyễn hóa, rốt cuộc rồi hoàn về chỗ không, cũng ví như trăm sông tuy phân ra muôn dòng ngàn mạch, nhưng tóm lại cũng chảy về biển.
Pháp Thế gian và pháp Xuất thế gian cũng chẳng qua là lý chơn như. Vì lý chơn như thiệt không có sanh và không có diệt, nên không có Niết bàn, tam thế cũng bình đẳng, mười phương đều thanh tịnh. Nếu lấy phần thanh tịnh bình đẳng ấy làm sự nhiêu ích cho các giống hữu tình, thì được đồng lên bờ giác ngạn.
Nếu chỗ sắp đặt phương pháp đặng như thế, thì cuộc trị bình trong thiên hạ sẽ hóa ra cảnh giới trang nghiêm. Đó là Bệ hạ dùng diệu pháp mà tế độ nơi đời, được như vậy thì các khác nào như một vị Từ Bi Vương tái thế”.
Vua Lương Võ Đế nghe mấy lời của Ngài biện giải, càng thêm tôn sùng kính trọng hơn nữa.
Khi Ngài ở tại Chùa Song Lâm, thấy Kinh tạng chứa đầy, Ngài biểu mấy đạo chúng đem từ cuốn mà tả ra. Bổn ý của Ngài muốn khiến cho kẻ sơ địa phàm phu nhờ công đức chuyển kinh đó mà đạt tới nơi chánh chơn của Phật.
Bởi vậy trong thiên hạ, duy có chỗ Song Lâm, thì Thiên Long thường ủng hộ, nên kinh tạng được toàn bổn mà lưu truyền đời sau.
Thoạt một ngày kia, có một làn định quang kim túc của Đức Thích Ca, mùi thơm bát ngát, từ phương đông bay đến mà nhóm nơi mình của Ngài. 
Bỗng nhiên có tiếng xướng rằng: “Phó Đại Sĩ xuất hiện ra đây, là thay thế cho Đức Thích Ca mà thuyết pháp, ngồi trên chỗ Long Hoa thắng hội mà chỉ rõ cái bổn nguyện từ mẫn của Đức Văn Thù và xiển dương huệ tập phổ thế của Đức Quan Âm”.
Rõ ràng Ngài cũng như bực y vương, đại thí những lương phương diệu tể mà điều trị tất cả bịnh vô minh phiền não. Thiệt là Ngài có công phu rất lớn và nhiều phương pháp khởi tử siêu sanh.
Có một bửa kia, khí trời nóng nực, Ngài ra ngoài gành biển mà hóng mát, dòm thấy dưới mé có một vùng quanh co theo bờ, và dân cư tại đó chỉ làm được ruộng muối mà thôi. Hễ đến thời tiết mùa thu, thì nước biển tràn lên linh láng, không thế nào mà ngăn cản cho đặng.
Ngài thấy vậy, liền nói với những người bổn xứ rằng: “Bần đạo muốn làm sao cho chỗ này thành ra ruộng tốt, để cho bá tánh cày cấy đặng nhờ đó mà an cư lạc nghiệp”.
Dân chúng nghe mấy lời ấy, đều cười rộ lên mà nói rằng: ” Ông này thiệt điên cuồng! Thuở nay thiền biển mà ai làm thành ruộng cho đặng bao giờ ?”
Ngài thấy dân chúng không đem lòng tin, liền lấy bao đựng cát đem chất xây giáp vòng như vách lũy mà bao ngạn luôn bãi cát ấy.
Lạ thay! Trọn một vùng bờ đê của Ngài làm đó, cách ít lâu cứng cũng như đá vậy, ngăn được ngọn nước thủy triều ngoài biển, không thế nào chảy vô được nữa, nhưng hồi Ngài làm đó có chia ra ba chặng, để ngừa khi Trời hạn và nước lụt.
Đến sau, nội trong khu đất ấy đều thành ra ruộng cả, ước chừng hơn hai ngàn mẫu, thường năm cày cấy đặng mùa luôn luôn. Dân cư trong xứ mỗi năm gặt lúa rồi, trích ra một phần ba để cung cấp cho tăng đồ trong các Chùa lân cận, mua chim cá mà phóng sanh, và làm nhiều việc phước thiện khác nữa.
Hiện nay mấy cái bờ bằng cát của Ngài làm đó hằng bền chắc, không có hư rã chút nào.
Thiệt là linh cảm thay chỗ di tích của bực Đại Thánh ngày xưa! Cho nên dân cư ở dọc theo mé biển ấy đều được phong y túc thực luôn luôn, cùng nhau lập Chùa thờ Ngài và truy tặng ruộng ấy là “phước điền”.
Sau Ngài qua phía Nam núi Phong Sơn mà chỉ điểm những chỗ ẩn tích nơi thâm khê cùng cốc, rồi mấy nơi ấy lần lần trở nên phong cảnh rất thiên nhiên và nét xuân quang bốn mùa đều xuất sắc.
Bửa nọ, Ngài đi chơi tới xứ Bắc thượng, chợt thấy một người đương sửa soạn làm thịt loài súc.
Ngài lật đật chạy lại can rằng: “Bần đạo xin tỏ cho nhà ngươi nghe. Tất cả loài súc sanh, nguyên nhân cũng là người thế gian, chớ không phải khác đâu, vì tạo ác nghiệp rất nặng nề, nên nay phải chịu khổ quả như vậy. Thoảng như mình làm điều phước thiện mà một đời chẳng được giàu sang, thì cũng còn có ngày trông giải thoát, chớ tạo nghiệp sát sanh như vậy, thì ngày sau khó tránh khỏi luân hồi khổ thú.
Bần đạo nguyện sao nhà ngươi hồi tâm tự lượng, đem tấm lòng nhân từ mà dung thứ những loài động vật, vì nó cũng đủ cả Phật tánh và cũng biết ham sống sợ chết như ta vậy.
Những người có nhơn hằng lấy con mắt Từ mà quán xét, xem vạn vật với ta đồng một thể, và muôn tượng với ta đồng một gốc. Nếu tấm lòng nhơn ái được như thế, thì chẳng những trọn đức từ bi lợi vật một thuở mà thôi, lại nhiều kiếp được trường thọ là khác nữa”.
Người ấy nghe Ngài phân giải như vậy, liền tỏ ngộ và chung thân không dám sát sanh loài động vật nữa.
Lại có một khi, Ngài đương đi ngoài đường, tình cờ gặp một người nông phu vừa cột một con trâu, đặng tính bề làm thịt.
Ngài đi hối hả lại can rằng: “Phàm ở đời, có nhơn thì có quả, không có sai chạy mảy nào, đó là lẻ cố nhiên như vậy. Hễ giết loài vật, thì có ngày chúng nó cũng giết lại, vậy mà trong đời có ai biết sợ sệt đâu, non dao rừng kiếm với vạc dầu ở chốn âm ty, để trừng trị những người tạo ác nghiệp như ngươi vậy, thì đời kiếp nào mà trông phần giải thoát cho đặng”.
Người nông phu nghe Ngài nói như thế, liền cúi đầu đãnh lễ và nguyện trọn đời không dám tái phạm nữa.
Ngài thường đi chơi ngoài đồng, bữa nọ lại gặp một ông Sa di hỏi Ngài rằng: “Thưa Đại Sĩ! Làm thế nào mà hàng phục được vọng tâm của mình ?”
Ngài nghe hỏi, liền trả lời rằng: “Tâm là vật gì đâu mà ông phải tìm cho uổng công phu. Vả lại vọng tâm thiệt không có căn bản, hễ buông nó ra thì không thấy dấu tích gì là vọng. Bởi bị các duyên đeo đuổi lăng xăng, nên mới thành ra vọng niệm như vậy. Nếu nhứt chơn của ta đặng yên tịnh rồi, thì toàn thể như như phóng ra khắp cả pháp giới và bốn thể vẫn tự nhiên mà rõ rệt. Chừng đó, dẫu cho bụi trần cấu cũng không có thế nào mà che lấp cho đặng, thì có vật chi đâu mà ngươi gọi rằng điều phục”.
Ông Sa di nghe Ngài biện bạch như thế, vùng tỏ ngộ và tôn kính vô cùng, rồi đãnh lễ mà từ giã.
Cách ít lâu Ngài đi chơi, chợt thấy một ông Sa môn còn nhiễm theo tục trần, cứ khu trục trong trường mộng ảo.
Ngài bèn đón lại mà chỉ dụ rằng: “Bần đạo coi ông vốn thiệt là Phật. Lẽ nào ông nên tự độ lấy mình, đặng mong có ngày chứng đặng quả vô sanh pháp nhẫn, cớ sao ông lại còn yễm trợ theo thói phàm tình, đành che lấp bổn lai diện mục như vậy?
Bây giờ ông phải bỏ các duyên cấu trược, mà giũ sạch những thói tà phong, ráng sức công phu mà suy tìm trong tâm thể vô sanh, thì có ngày sẽ đạt tới chỗ diệu minh chơn tánh. Nếu ông hồi quang phản chiếu cho toàn thủy toàn chung rồi, sẽ đặng vô ngại viên thông.
Bần đạo ao ước làm sao cho ông được như thế, thì có khác nào một vị La Hán xuất trần, nếu chẳng vậy thì cũng làm một vị Khuất sát trượng phu. Chớ cách hành động như ông đó, thì đã không có ích cho mình, mà lại uổng công xuất thế học đạo vô vi, đến chung quy cũng còn lăn lộn trong đường Lục đạo, biết chừng nào mà thoát ra khỏi đặng vòng sanh tử. Như vậy có khổ hay không ?”
Ông Sa môn nhờ Ngài điểm hóa, nên liền tỏ ngộ lý chơn thừa. Từ đó về sau, ông càng lo tu học, không còn nhiễm nữa.
Thiệt cách phô tế của Ngài không khác nào một ông lương y, đã điều trị không biết bao nhiêu là chứng trầm kha phế tật, rõ ràng một hột minh châu có thể chỉ sắt hóa nên vàng, một lời pháp ngữ có thể đổi người phàm trở nên bực Thánh.
Bởi vậy cho nên Ngài thường dùng những phương pháp thiền định rất giản dị mà độ thoát tất cả chúng sanh qua khỏi sông mê bể khổ, dẫn dụ người đời ra khỏi nhà lửa đường mờ.
Ngài lại chẳng nên sự cấu nhục của thế tình, cứ xen lẫn trong chốn trần lao, mà thi hành những sự lợi ích cho hạng người còn sống say thác ngủ. Vì vậy cho nên trong tám phương hồ hải, chỗ nào cũng là chỗ viên giác đạo tràng của Ngài thế thác cả.
Còn đối với thập loại chúng sanh, thì Ngài càng đem lòng quyến luyến như con một cha, như người một nhà, không phân biệt nhơn ngã, và không biện luận Bắc Nam, vì tất cả chúng sanh thảy đều đủ chơn như diệu tánh như Ngài vậy, nhưng vì bị màn vô minh che lấp, nên phải trì trục trong vòng khổ hải sầu thành đó thôi!
Ngài thường đối với quần chúng mà nói rằng: “Muôn tượng chỉ bao la, song một mảy trần chẳng lập, nhứt chơn trong pháp giới, trăm hạnh đều phân vân. Tuy vậy chớ không lọt ra ngoài vòng như như chí lý, cho nên động tịnh đều là pháp tham thiền, nếu một niệm mà được khế chơn, thì sẽ có ngày mau lên bờ bỉ ngạn.
Đó là lời pháp ngữ của Ngài phát ra những lý mầu nhiệm của thiền gia, để bủa khắp chốn mê đồ, đặng mở rộng những nghĩa huyền tôn trong tâm địa, trước là thâu thập những người có lợi căn, sau là thức tỉnh số người còn độn trí. Thiệt công phu của Ngài đến vô lượng vô biên, lòng phổ tế trong đời cũng vô cùng vô tận.
Đến đời Lương, nhằm khoảng vua Quân Vương trị vì, niên hiệu Trinh Minh, năm thứ hai, ngày mùng ba tháng ba, Ngài đối trước chúng nhơn mà nói rằng: “Qua năm tới đây, cũng ngày này và tháng này, thì ta đem trái “Di Lặc” mà cúng dường cho đại chúng”.
Quả nhiên qua năm sau, cũng trong ngày ấy và tháng ấy, đại chúng thấy Ngài ngồi kiết già trên bàn thạch, gần bên Chùa Song Lâm mà nhập diệt. Ai nấy thảy đều kinh dị và than thở vô cùng.
Trong đại chúng mới hiệp lực cùng nhau kết khám mà để thi hài của Ngài, rồi làm một tòa bửu tháp rất tôn trọng, ngoài ngạch bia có khắc hiệu là: Định Ứng Tháp.
Hiện nay tại chỗ bửu tháp ấy, tuy trãi mấy phen tang thương biến đổi, mà công trình vẫn còn đồ sộ như xưa, thánh tích nguy nga, xa trông vọi vọi, bốn mùa người đàn Việt tới lui chẳng ngớt, một phương trời chuông trống rất oai nghiêm.
Đức Di Lặc tuy chưa đến thời kỳ xuất thế, nhưng tấm lòng từ bi vô hạn đối với tất cả quần sanh, đôi phen tùy theo cơ duyên thục thác mà ứng tích nơi đời, đặng nêu bày lẽ chánh tôn định huệ, cố ý nhiếp trì những hạng người đương chìm đắm nơi sông ái hà, và ra công phổ độ những kẻ bị chới với giữa dòng khổ hải.
Thiệt công đức của Ngài không có bút mực nào mà mô tả ra cho hết đặng.
Từ ấy chí nhẫn nay, có trên ngàn năm mà phước điền của Ngài còn lưu trụ các điện Đại hùng, thiện quả vẫn còn bủa khắp nơi trong thế giới.
Chẳng những mười phương đảnh lễ tôn sùng Ngài mà thôi, cho đến sáu chữ “Nam Mô Di Lặc Tôn Phật” thì người thường một lòng trì niệm, chẳng có chút nào biến đổi cả.
Nói tóm lại, Đức Di Lặc còn nhiều số kiếp nữa mới xuất hiện ra đời, để nối ngôi cho Đức Thích Ca mà làm một vị Phật thứ năm trong Hiền kiếp, đặng đại chuyển pháp luân mà tế độ muôn loài và phổ lợi trong sa giới.
Nhưng ngặt vì chúng sanh chưa rõ lẽ thiện chơn, cứ vọng tưởng những việc huyễn hoặc, mà đành chịu sa chìm vào nơi khổ hải và tự mình chuốc lấy nẻo luân hồi.
Chớ  Chư Phật tuy đã nhập diệt rồi, song Tam Bảo còn lưu trụ khắp cõi  nhơn gian, nếu ai hết lòng tinh tấn vui theo mà thọ trì, thì cũng như Phật đương trụ thế vậy.
Tiếc thay! Người đời trí cạn chướng sâu và tội nhiều phước ít, cho nên đối diện ngôi Tam Bảo coi như cách xa ngàn dặm.
Vì nguyên nhân của chúng sanh như thế, nên bất đắc dĩ Ngài mới ứng tích nhiều thời kỳ, đặng hóa độ các kẻ phàm loại trong nhơn gian đó thôi

.·:*´¨¨`*:·..·:*´¨¨`*:·.

Kính thưa quý cử tọa!
Như quý vị vừa xem xong tài liệu kể trên, thì chúng ta lại thấy thêm một vị Phật nữa made in China. Còn nhiều nguồn thông tin khác quý vị có thể tham khảo trên trang web và những sách vở đã in sẵn.

- Tam Tiểu Thư: Em xin nhắc lại quý cử tọa Nặc Danh có đóng góp ý kiến như sau:  


"- QTABT là sản phẩm của Đại Thừa nhưng CTR lại dùng để tu tập".

Em xin thưa cùng quý cử tọa Nặc Danh. Ai cũng biết Samasamadhi là "Chú Tâm vào một vật duy nhất". CTR sử dụng hình ảnh Quán Âm Tự Tại như một Đối Tượng để Quán Tưởng, làm cho Tâm Thức yên ổn, nói đúng hơn là hy vọng đạt được Tốc Hành Tâm … CTR không bao giờ xác nhận là vị Bồ Tát Quán Âm Tự Tại là một nhân vật có thật trong lịch sử của loài người. Một việc mà ai cũng biết, không hề có một lịch sử nào ở bất cứ thời đại nào, ở bất cứ đâu, xác định về tiểu sử một vị gọi là Quán âm Tự Tại Bồ Tát.

CTR sử dụng đối tượng Quán Âm Tự Tại Bồ Tát để tu hành vì cho rằng có những lợi điểm như sau:

1. Ðối tượng tu Thiền Định phải là một Thiện Pháp, nói rõ hơn là tạo một ấn tượng tốt, một tình cảm tốt. Nói ở góc cạnh kinh doanh, tuyên truyền … là một thương hiệu, là một khẩu hiệu được nhiều người biết tới.

2. Với một định kiến vốn có xưa nay của dân gian, Quán Âm Tự Tại Bồ Tát là hiện thân, của một người mẹ từ bi, cứu nạn cứu khổ … tương tự như hình ảnh của Ðức Mẹ Maria. Việc quán tưởng này, tạo ra một sự cảm thông giữa người tu và đối tượng, một cơ hội để nâng tầm đạo đức lên tầm cao mới. Qua hình ảnh này, ít nhiều người ta cũng lây nhiễm tâm lý thương người, khoan dung, độ lượng, yên tâm …

3. Trên quan điểm của Vi Diệu Pháp, thì việc có một Đối Tượng để Quán Tưởng, là một yêu cầu khẩn thiết. Do đó, việc sử dụng đối tượng là vị Bồ Tát Quán Âm Tự Tại vô hình chung, đáp ứng được nhiều yêu cầu. Dường như trường phái Tịnh Ðộ cũng đề cập tới một công thức, mà có thể xuất phát từ Chánh Định Phật giáo là “Nhất Tâm Bất Loạn” .

4. Rất có thể sử dụng công cụ này mà người tu tạo được trạng thái Nhất Tâm Bất Loạn, có nghĩa là đạt được trạng thái Javana.

5. Quan điểm của CTR blog là sân chơi của "Sự Thật không che đậy". CTR không bao giờ chủ trương sử dụng hình ảnh vị Bồ Tát Quán Âm Tự Tại, nhằm mục đích để cầu xin, van vái, nhờ vả, nhờ vị này giúp đỡ ai hoặc nhờ vị này tấn công ai …

- Tam Tiểu Thư: Em xin phép nhắc lại ý kiến của quý cử tọa Nặc Danh  


"- Bồ Tát có phải là con đường, là lý tưởng của "Đại Thừa"... Ngài Thích Ca Mâu Ni trước khi thành Phật có phải là Bồ Tát không?"

Kính thưa toàn thể quý cử tọa, thưa quý cử tọa Nặc Danh. Qua tham khảo rất nhiều tài liệu, mà em đã có nhiều dịp trình bày nguyên bản để quý cử tọa thưởng lãm, em thiết nghĩ quý cử tọa ít nhất cũng đã được xem tiểu sử của một số vị Bồ Tát. Việc thật giả tùy quý cử tọa nhận xét định đoạt.

Vấn đề quý cử tọa nêu ra về cái gọi là “Bồ Tát Ðạo” có một lịch sử và tiến trình khá phức tạp.

Theo các tài liệu của các chuyên gia về tiến trình lịch sử của Phật Giáo, thì khái niệm về Bồ Tát có lẽ hiện hữu vào khoảng trước và sau Công Nguyên 150 năm đến 100 năm. Khái niệm Bồ Tát này hoàn toàn không hiện hữu trong giai đoạn lịch sử 300 hay 400 năm sau khi Phật nhập niết bàn.

Người ta cho là vào thời gian kể trên thì khái niệm Bồ Tát Đạo ra đời. Khái niệm này đi vào lịch sử như một liên hiệp lỏng lẽo của nhiều nhóm và mỗi nhóm lại có những kinh điển mới. Người ta cho rằng những kinh điển này được viết bằng một thứ ngôn ngữ của miền Trung Ấn Ðộ. Ðây là một loại Sanskrit hỗn tạp. Người ta ngụy tạo đó là lời nói của Ðức Phật. Nhưng vào lúc bấy giờ, đại đa số là Phật Giáo Nguyên Thủy không công nhận tư tưởng này.

Nhưng rồi theo thời gian, những người tự coi mình là Ðại Thừa, tự coi mình là thời kỳ Chuyển Pháp Luân lần thứ 2, tự cho rằng lời giảng dạy đó cao siêu hơn Kinh Nguyên thủy. Nhân vật Bồ Tát được xuất hiện trong lúc này. Bồ Tát được mô tả như là có trí tuệ cao hơn A La Hán. Các kinh sách mới cổ võ một đường lối tu tập khác hẳn với truyền thống Sakya Muni và tự cho mình là có khả năng Giải Thoát cao hơn. Cách tu tập được đưa ra là:

Sao chép lại > Quảng bá > Tụng đọc > Tham cứu > Thực hành > Tôn thờ > Lễ lạc.

Người ta cho rằng những tài liệu này được trước tác bởi một số vị Pháp sư nhằm lôi cuốn thêm tín đồ mới. Và có lẽ lần đầu tiên người ta đề cập tới phương tiện của Bồ Tát đạo.

Trong kinh điển của Ðại Thừa (phải bảo là ngụy tạo), cũng Nhái theo các Kinh Điển Nguyên Thủy nhưng lời nói thì bóng bẩy đa nghĩa. Các buổi thuyết pháp thì xuất hiện ra nhiều vị Phật, nhiều vị Bồ Tát với nhiều danh hiệu, gợi ý cho người ta tôn thờ, sùng báicầu nguyện. Nói một cách khác, theo như kinh điển mới của Ðại Thừa được trước tác bởi nhiều tác giả không có tên, cũng có khi có tên, thì nhân vật Bồ Tát đã thay thế nhân vật A La Hán.

Trong những tài liệu này, thì các vị A La Hán, giờ đây được mô tả như là còn ngã mạn, thiếu lòng từ bi, chỉ tu hành thoát khổ cho chính bản thân của mình, không chịu giúp đỡ các chúng sinh khác.

Khái niệm về Bồ Tát theo lịch sử thì đã xuất hiện ở tại ngay quê hương của Ngài Sakya Muni. Nhân vật A La Hán của Sakya Muni đã thua nhân vật Bồ Tát ngay trên sân nhà sau khi Phật nhập Niết Bàn khoảng 3, 4 trăm năm. Ðến khi Phật Giáo truyền qua Trung Quốc thì có lẽ tư tưởng về một nhân vật Bồ Tát ít nhiều đã chín mùi. Chính tại Trung Quốc, nhân vật Bồ Tát đã tìm được một sân chơi thích hợp. Quý vị có thể xem rất nhiều tài liệu về tiểu sử các vị Bồ Tát ở Trung Quốc …

Nói một cách khác, khi nhân vật Bồ Tát được nhập khẩu vào Trung Quốc, thì nó đã được Trung Quốc hóa. Với trí tưởng tượng tài ba và phong phú, muôn màu muôn vẻ của các tác giả Trung Quốc, thì nay nhân vật Bồ Tát được nâng lên một tầm cao mới. Bồ Tát đạo được ca ngợi, quan điểm Bồ Tát được tỏa sáng không những ở Trung Quốc mà còn ở nhiều nước khác như Việt Nam, Hàn Quốc ... Một thực tế là đại đa số mọi người đều cầu xin, van vái, nhờ vả, cần sự giúp đỡ, kể cả nhờ Bồ Tát tấn kích người khác … Nói tóm lại, hào quang của Bồ Tát đã tỏa sáng trên thực tế, trường phái Phật Giáo Nguyên Thủy của Sakya Muni đành lui vào hàng thứ cấp.

Em xin cám ơn toàn thể quý vị, em rất mong được gặp quý vị trong buổi họp báo tới. Trân trọng kính chào!