Pages

Con mắt thứ ba: Xuyên Vân Kiếm Pháp 20

Có một không hai - có hai chết liền ...

Tập 20: Công Cuộc tìm kiếm Gốc Rễ Đại Thụ Phật Giáo

Bóng đêm dần dần phủ xuống. Đêm nay đoàn Bảo tiêu phải ở lại trong rừng. Suốt ngày họ đã di chuyển vất vả qua chặng đường dài. Tam Tiểu Thư và Tổng quản đang gom những cành cây khô rải rác và chất thành đống. Họ cần đốt lên ánh lửa trong không khí lạnh lẽo của rừng đêm.

- Tam Tiểu Thư: À! Ông Tổng Quản ơi, nói để ông biết là tôi rất thích đạo Phật. Suốt thời gian qua tôi đã học hỏi từ ông và cuốn Tạp Thư rất nhiều thứ. Ông đã chỉ dẫn tôi phương pháp tu tập; nhưng lòng tôi vẫn mơ mơ hồ hồ. Tôi biết đạo Phật có hai Trường Phái là Tiểu Thừa và Đại Thừa nhưng kiến thức của tôi yếu quá nên chẳng phân biệt được chúng khác nhau thế nào. Có điều là trong lòng thì có cảm tình với Tiểu Thừa hơn. Lý do đơn giản là vì tôi nghe nói Tiểu Thừa là Phật Giáo Nguyên Thủy. Tôi đoán cái gì Nguyên Thủy thì nó trung thực hơn. Ông coi tôi nghèo nghèo vậy chứ phong lưu lắm, toàn mua đĩa DVD Paris Bynight bản gốc không đó. Cái gì copy sao chép nhiều lần là nó sẽ “tam sao thất bổn” thôi. Mà ông cũng biết đĩa DVD dù sao chép bằng máy tính, nhưng người chép vẫn thêm bớt được; huống gì chuyện viết ra bằng cách nhớ lại lời đức Phật giảng. Tôi chỉ nhận xét theo tâm chân thật thường tình của tôi thôi, ông đừng la tôi là xúc phạm kinh sách nhé. Ông đang chỉ tôi tu theo Trường Phái nào vậy? Ông đừng dẫn tôi đi lung tung nhé. Làm ơn dạy tôi con đường nào mà đức Phật Sakya Muni đã tu thành công nha ông. Vậy cho nó thực tế.

- Ông Tổng Quản: Theo nhiều nhận xét khách quan thì tu Thiền Định của Trường Phái Tiểu Thừa Phật Giáo là lối tu thực tế, có bài bản lớp lang, dễ thực hành nên nằm trong khả năng của nhiều người. Hơn thế nữa, Sakya Muni cách đây 2.500 năm cũng tu tập như vậy mà thành công … Tuy nhiên, tôi không biết Cô có đủ tự tin hay không khi chọn Trường Phái này. Cô tu được vài bữa, sau đó nghe người ta giới thiệu những Trường Phái khác cũng được cho là của Phật Giáo nhưng nghe hoành tráng hơn, to lớn hơn … Nhiều từ ngữ được dùng để chỉ về tính chất đặc biệt của những Pháp Tu nói trên như: Pháp Tu Tối Thượng Thừa, Pháp Tu Thù Thắng … rồi cô đổi ý thì sao?

- Tam Tiểu Thư (cười lớn): Đúng là sanh ra tôi thì có ba má tôi, còn hiểu tôi thì có mỗi mình ông đó. Hỏi ông chứ khi mình nghe giới thiệu những Pháp Tu vừa đúng là của Phật Giáo, vừa hay, vừa ngắn, vừa chứng đắc quả vị cao thì ngu sao không theo chứ? Thực lòng mà nói thì không phải mình tôi mà nhiều độc giả khác cũng cảm thấy rất hoang mang. Tới bất cứ các Cơ sở Tôn giáo, được gọi là Phật Giáo, đều to lớn hoành tráng, thờ phụng rất nhiều Vị Phật và có rất nhiều pho tượng. Tôi và có lẽ đại đa số người đến Chùa cũng chẳng biết các Vị đó là ai. Ông Tổng Quản ơi, sao đạo Phật phức tạp thiệt đó. Nào là có quá nhiều Vị Phật, có quá nhiều Trường Phái, có quá nhiều Kinh sách. Thật sự từ xưa tới giờ, ai cũng phải lo làm ăn sinh sống. Đâu phải ai cũng là chuyên viên, chuyên gia, có đủ thời gian, tiền bạc cũng như kiến thức để khảo cứu. Hồi đó tôi thường đi theo ba má tôi đến Chùa, rồi từ từ trở thành một tín đồ lúc nào không biết. Tôi có một người bạn xuất gia, vào Chùa Tu chuyên nghiệp đó ông. Khi tôi hỏi sao lại vào đó để Tu, thì anh cũng không biết trả lời ra sao. Gia đình tôi có quen một Nữ Tu sĩ, Trụ trì một ngôi Chùa. Cô đã tâm sự như sau: “Tôi lớn lên, thì nhận ra mình là một Tu sĩ, điều này hoàn toàn ngoài ý muốn của tôi”. Sao mà lẫn lộn quá đi. Ông Tổng Quản làm ơn giúp tôi xem nên chọn Tu theo Trường Phái Phật Giáo nào đi ông.

- Ông Tổng Quản: Theo thông tin của cuốn Tạp Thư, để cho dễ hình dung, người ta đã mô tả Phật Giáo như một Cây Đại Thụ. So sánh này, có thể nói là khá chính xác, xét ở bất cứ khía cạnh nào: Thời gian, lãnh thổ, số lượng tín đồ, trường phái, số lượng tài liệu, v.v…

Riêng về danh xưng gọi là Phật, có tài liệu cho biết đến con số là vạn Phật.

Trường Phái: Nhiều vô số kể. Chỉ tính riêng Phật Giáo Trung Quốc, số lượng Trường Phái có thể kể hàng trang sách.
- Bát Nhã Học Phái.
- Câu Xá Học Phái.
- Duy Thức Tông.
- Dương Kỳ Phái.
- Địa Luận Học Phái.
- Hoa Nghiêm Tông.
- Hồng Long Phái.
- Huyễn Hóa Tông.
- Lâm Tế Tông.
- Luật Tông …

Danh sách còn rất dài …

- Tam Tiểu Thư: Thôi đủ rồi ông ạ, ông có kể thêm thì cũng chẳng giúp gì được cho ai cả. Ông tìm cách nào để trình bày cho dễ hiểu hơn đi ông?
- Ông Tổng Quản: Ðể có một khái niệm tối thiểu chúng ta tạm chia ra làm 4 Trường Phái, dựa vào yếu tố địa lý, tư tưởng và lịch sử:

Phật Giáo Kinh Bộ (Nikaya Buddhism):
   Người ta còn gọi là Phật Giáo Nguyên Khởi (Original Buddhism) Ðây là Trường Phái sử dụng Kinh Điển Nguyên Thủy, trước khi Kinh điển Đại thừa ra đời. Những tài liệu này thường viết bằng hệ Pali.
Phật Giáo Bắc Phương (Northern Buddhism):
   Mật tông Tây Tạng.
Phật Giáo Ðông Phương (Eastern Buddhism):
   Gồm có Trung Hoa, Nhật Bản, Hàn Quốc, Việt Nam.
Phật Giáo Nam Phương (Southern Buddhism):
   Gồm có Tích Lan, Miến Ðiện, Lào, Thái Lan, Cambodia.

Cách chia này có lẽ là đơn giản, dễ hiểu nhất. Thật vậy, khi quan sát những Trường Phái kể trên, chúng ta biết ngay là nó nằm trong Phật Giáo Ðông Phương của Trung Quốc.

Bây giờ đề cập đến các tài liệu của Trường Phái Phật Giáo. Phải nói rằng, không ai dám tự nhận rằng mình đã đọc hết những tài liệu của Phật Giáo; vì số lượng tài liệu này quá lớn, thật sự không biết là bao nhiêu.

Chúng ta thử liệt kê sơ một số cuốn Kinh, một số cuốn Luận:
- Ðại Phẩm Bát Nhã.
- Tiểu Phẩm Bát Nhã.
- Diệu Pháp Liên Hoa.
- Hoa Nghiêm.
- Ðại Vô Lượng Thọ.
- Thủ Lăng Nghiêm.
- Duy Ma Cật.
- Ðại Trang Nghiêm luận.
- V.v…

Một số bộ luận:
- Trung Quán luận.
- Bồ đề tâm ly tướng luận.
- Ðại trí độ luận.
- Phương tiện tâm luận.
- Thập bát Không luận.
- Ðại thừa phá hữu luận.
- Bách luận.
- Bách tự luận.
- V.v…

Số lượng tài liệu nhiều không kể hết.

- Tam Tiểu Thư: Ông làm tôi ngạc nhiên quá. Ý tôi hỏi là những tài liệu này ở đâu ra mà lại có quá nhiều như vậy?
- Ông Tổng Quản: Thắc mắc của Cô rất hợp lý. Phải nói Phật Giáo hiện nay là một cây Đại Thụ mà cành lá xum xuê của nó đã che mất gốc rễ hoàn toàn.

Người ta có thể lý giải như sau:

Xã hội loài người bất cứ ở đâu, bất cứ lúc nào cũng có rất nhiều loại Tôn Giáo. Tôn Giáo đó có thể Đa Thần, có thể Độc Thần. Nhưng hầu hết, họ chỉ có một tài liệu làm nền móng cho tất cả mọi người. Các Tôn Giáo thường coi tài liệu này là thiêng liêng, mặc khải, không thể thêm bớt, sữa chữa. Nói một cách bình dân là không ai được phép thêm bớt. Quan điểm này phổ biến trong hầu hết các Tôn Giáo. Phật Giáo thì lại khác. Như tất cả mọi người đều biết, Phật Giáo là do Sakya Muni khởi xướng, nhưng Ngài lại có cách ứng xử, suy nghĩ, làm việc, phát biểu của một Khoa Học Gia. Nếu gọi Phật Giáo là một Chủ nghĩa, thì đó là một Chủ nghĩa không có giáo điều, phủ nhận đức tin mù quáng, giải phóng con người ra khỏi thân phận nô lệ của Thần Thánh, khai tử Thượng Đế, Thần linh Siêu nhiên, đoạn tuyệt với thủ tục cúng bái, vật tế thần … mà những điều này khá thịnh hành trong thời kỳ Veda. Ai cũng biết đây là một thời kỳ nặng về cúng tế.

Có lẽ nhờ vào Thiền quán, nhờ vào hệ quả của thực nghiệm Thiền quán, Sakya muni đã tìm được sự thật của vạn vật chính từ kinh nghiệm thực tế, chứ không phải từ Lý thuyết. Do quan sát hiện tượng tự nhiên, Ngài đưa ra những phát biểu nêu sau:

Sự thật về cái Khổ: Sanh, Lão, Bệnh, Tử, Phiền Não.
Nguồn gốc của cái Khổ: Do dục vọng, do lòng ham muốn ích kỷ, do thiếu hiểu biết, mê muội.
Diệt Khổ: Bỏ được lòng ham muốn.
Tận diệt Khổ đau: Bát chánh đạo.

GIỚI: Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng.
ĐỊNH: Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm, Chánh Định.
HUỆ: Chánh Kiến, Chánh Tư Duy.

Những tư tưởng này mang tính chất cách mạng không những đối với xã hội đương thời, mà nó vẫn còn những giá trị cho đến tận ngày hôm nay. Tư tưởng đó có tính chất khai hóa, giải phóng, thoát ly ra khỏi những ràng buộc, phong tục tập quán của xã hội lúc bấy giờ. Có thể vì những lý do nêu trên mà Phật Giáo đã phát triển thành một Cây Đại Thụ. Chúng ta còn tìm thấy những tư tưởng của Sakya Muni bàng bạc trong tư tưởng của rất nhiều các Triết Gia khác, ở thời đại khác và địa lý khác.

Heraclitus (500 năm trước BC): Không có gì trường tồn.
Spinoza (1632-1677): Thực tế vừa trường tồn, vừa tạm bợ nhất thời (Tư tưởng này tương ứng với quan điểm của Tam Pháp Ðộ luận).
Home (1711-1776): Trạng thái tinh thần luôn luôn biến chuyển.
Hegel (1770-1831): Toàn thể hiện tượng là sự đang trở thành.
Bergson (1859-1941): Chủ trương thuyết vô thường.
William James (1842-1910): Luồng Tâm Thức như một dòng nước.

- Tam Tiểu Thư: Truyền thống Phật giáo, đúng là một Cây Đại Thụ. Muốn đi tìm nguồn gốc thật sự của Phật Giáo thì thật là gian nan đáng sợ. Rõ ràng là cành lá phát triển quá xum suê to lớn, che kín hết gốc rễ khiến người ta không còn nhận ra đâu là Phật Giáo Nguyên Thủy.

Thế nhưng ông phải làm cách nào giúp cho tôi thấy được cái nguyên bản chứ. Ông đã ví Phật Giáo như một cái cây, thì chắc chắn nó phải có một cái gốc. Không lẽ cái cây lại mọc trên không? ngay cả những cái cây của thế kỷ 21 mọc ở trên giàn thì cũng phải có dung môi, hóa chất để nuôi bộ rễ. Nói tóm lại, bất kể loại cây nào cũng phải có gốc, có rễ.

Tôi muốn biết nguồn gốc thực sự của Phật Giáo Nguyên Thủy là thế nào? Bắt nguồn từ đâu? Vào thời gian nào? Do ai nghĩ ra? Tư tưởng của nó là gì? ...

- Ông Tổng Quản: Không phải một mình Tam Tiểu Thư, mà có lẽ quý độc giả cũng có những thắc mắc tương tự. Thật vậy khi đến một Cơ Sở Tôn Giáo nào đó, được cho biết đây là Cơ Sở của Tịnh Độ, đây là Cơ Sở của Thiền … nhưng sự thật người ta cũng chẳng hiểu Trường Phái này thực sự bắt nguồn ở đâu. Ai cũng làm những thủ tục lễ bái. Nói một cách cụ thể là mình thấy người ta làm sao thì mình làm vậy. Nói về chuyện lễ bái, thì cuốn Tạp Thư lại cho biết, thời gian Sakya Muni tại thế, việc lễ bái không hiện hữu trong Trường Phái của Ngài.

Ðể giải thích vấn đề này, người ta phải quay ngược lại thời gian, tìm về địa điểm mà Sakya Muni đã xuất hiện tại Ấn Ðộ.

Theo như truyền thuyết, sau khi Sakya Muni đã nhập Niết Bàn, các Đại Đệ Tử của Ngài nhiều lần đã có những cuộc triệu tập để xác định lại các tài liệu gọi là Kinh Điển (kết tập kinh điển). Nhưng chúng ta cũng biết, sau khi Phật Thích Ca tịch diệt 500 năm, thì Ấn Ðộ vẫn chưa có chữ viết và chưa có giấy. Những kinh sách (thật ra gọi là Kinh Sách thì không đúng, vì không có … sách) hoàn toàn được truyền khẩu, từ người này qua người kia, từ đời này qua đời khác. Do đó, để giữ cho những tài liệu này hoàn toàn chính xác là điều không thể thực hiện được. Một câu chuyện bình thường, chỉ cần 5 phút sau là đã sai lệch, nói gì đến 500 năm sau! Mà các bài Kinh thì nào có đơn giản; nếu không muốn nói là quá phức tạp. Ta lấy thí dụ Tăng Chi Bộ Kinh có tới 2.308 bài Kinh thì làm sao mà nhớ được! Nếu chúng ta quy ước với nhau, một thế hệ con người là 25 năm (chúng ta đừng quên thuở xưa, tục Tảo Hôn gần như phổ biến khắp nơi) nên phải tính là trên 40 thế hệ. Ai có thể đoan chắc, cha mẹ truyền cho con hay cho ai đó, qua quá nhiều thế hệ như vậy mà không bị sai lệch? Trước thực trạng này, chúng ta thấy các tài liệu của Phật Giáo được trình bày có tính huyền thoại thì đúng hơn là có tính lịch sử.

Theo các tài liệu ghi lại, người ta kết tập kinh sách rất nhiều lần:

Kết tập lần 1 và 2 ở Ấn Ðộ: Luật Tạng, Kinh Tạng.
Kết tập lần thứ 3 cũng tại Ấn Ðộ: Vi Diệu Pháp.
Kết tập lần thứ 4 tại Tích Lan: 500 năm sau khi Phật Nhập Niết Bàn. Lần đầu tiên người ta ghi chép trên giấy, sự thật là trên lá bối đa khô.
Kết tập kinh điển tại Miến Ðiện lần thứ 5, lần thứ 6, 1870-1954.

Sau đây là bản liệt kê các tài liệu cơ bản của Phật Giáo Nguyên Thủy, bản liệt kê này mang tính chất minh họa, sơ lược, để quý độc giả đễ tìm hiểu khi có nhu cầu. Những tài liệu này có thể chia ra làm 3 lọai căn bản: LUẬT / KINH TẠNG / LUẬN.

A. LUẬT: Chia ra làm 5 bộ
B. KINH:

Kinh theo hệ Pali gọi là Nikaya, theo hệ Sanskrit gọi là Agamas. Tài liệu theo hệ Sanskrit này, hầu hết đã thất lạc, mặt khác không có nguồn gốc rõ ràng

1. Trường Bộ Kinh (Digha Nikaya) gồm 34 bài Kinh.
2. Trung Bộ Kinh (Majjhima Nikaya) gồm 152 bài Kinh: Ðây là tài liệu quan trọng nhất. Nếu Tam Tiểu Thư cũng như quý độc giả có ý định tìm hiểu về Phật Giáo từ lý thuyết đến thực hành; thì tài liệu Trung Bộ Kinh này có thể đáp ứng được hầu hết những điều quý vị muốn tìm hiểu. Có lẽ đây chính là tài liệu đại diện cho Phật Giáo Nguyên Thủy. Trong tài liệu này quý vị có thể tìm thấy:

Phép Hành Thiền Quán Niệm.
Chánh Kiến.
Cách Tịnh Tâm.
Tứ Diệu Đế.
Không tính.
Quán Niệm Hơi Thở …

Có lẽ căn cứ vào tài liệu này, mà các tài liệu Vi Diệu Pháp, đã đúc kết những tư tưởng cơ bản.

3. Tương Ưng Bộ Kinh (Samyutta) gồm 2.889 bài Kinh.
4. Tăng Chi: gồm 2.308 bài kinh.
5. Tiểu Bộ: 15 bộ sách nhỏ.

C. VI DIỆU PHÁP

- Tam Tiểu Thư: Nhờ phần trình bày của ông, tôi có được cái nhìn sơ lược và tổng quát của Truyền Thống Phật Giáo. Có lẽ hệ Pali là gần với tư tưởng của Sakya Muni nhất, nhưng điều này chỉ là một hy vọng mỏng manh. Chắc chắn không thể nói là những tài liệu này hoàn toàn chính xác được.
- Ông Tổng Quản: Cuốn Tạp Thư có đưa ra một nhận xét như thế này “Những tài liệu của Phật Giáo ghi lại bằng chữ viết được cho là 500 năm sau ngày Sakya Muni nhập diệt. Thời gian này đủ để cho biết bao nhiêu đổi thay về mọi phương diện của con người tại bất cứ xứ sở nào: Chính trị, Xã hội, Văn hóa …” Phải khẳng định rằng, Tam Tạng Kinh Điển, bắt buộc phải biến đổi một cách tất nhiên, tùy thuộc vào các yếu tố khách quan. Người ta cho là ngay trong những giai đoạn kết tập đầu tiên, nội bộ Phật Giáo Nguyên Thủy đã có sự phân hóa. Lý do là các Tu sĩ không đồng ý được với nhau vì mười Giới Luật, người muốn giữ, người muốn bỏ.

Ðiều đáng kinh ngạc nhất và tưởng chừng như phi lý, là mặc dù 500 năm mới được ghi chép lại, nhưng các tư tưởng của những tài liệu thuộc hệ Pali lại có tính chất nhất quán. Đây đúng là một phép lạ, phép lạ của Phật Giáo, một kỷ lục chưa từng có trong lịch sử của nhân loại.

Xét về mặt Khoa Học và Thẩm Mỹ, những tài liệu này cho thấy đây là tư tưởng của một bộ óc duy nhất nào đó. Thời gian đã trên 2.000 năm, những người kết tập lúc bấy giờ dù có muốn ngụy tạo, thì e ngại là cũng chưa có đủ kiến thức, kỹ thuật, tư tưởng để ngụy tạo. Tài liệu này chứng tỏ có một tư tưởng duy nhất làm nền, để xây dựng lên thượng tầng kiến trúc.

- Tam Tiểu Thư: Theo như ông nói, căn cứ vào cuốn Tạp Thư, nếu chúng ta dựa vào hệ Pali để tìm hiểu, thì có lẽ gần với lời Phật nói nhất. Tài liệu Trung Bộ Kinh rất thiết thực cho một người Tu bình thường, tạo dựng nền móng vững chắc, lý thuyết cũng như thực hành. Quý vị nào đó muốn chuyên sâu hơn thì Vi Diệu Pháp đáp ứng được yêu cầu này. Tôi thấy dường như ngài Thích Minh Châu, và có lẽ ngài Thích Thiện Châu cũng có ý kiến tương tự lúc sinh thời thì phải. Ngài Thích Thiện Châu còn đóng góp cho đời tài liệu Tam Pháp Ðộ Luận.

Thật ra, tôi vẫn chưa hết thắc mắc. Khi đến thăm viếng một số Cơ sở Tôn giáo Phật Giáo, thấy người ta thờ rất nhiều Vị nhưng thật sự tôi không biết đó là những ai. Các Vị này có hình tướng khác nhau. Vị thì có râu, Vị thì có hai tay, Vị thì có nhiều tay, thậm chí có Vị trông hình tướng rất hung dữ … Như vậy, có lẽ có rất nhiều Vị Phật. Tôi có hỏi, thì được cho biết tên của rất nhiều Vị Phật nhưng tôi không nhớ hết.

- Ông Tổng Quản: Ðể trả lời cho vấn đề này, trước nhất chúng ta nên giới hạn việc tìm hiểu và khảo cứu trong các tài liệu của hệ Pali, vì hệ này còn tồn tại không bị thất lạc. Cũng nên nhắc lại hệ Sanskrit, đã thất lạc, không ai xác định được nguồn gốc là ở đâu, do ai trước tác. Có người cho là những tài liệu của hệ Sanskrit (tài liệu của Đại Thừa) đã được viết từ khi có những buổi kết tập do sự phân hóa nội bộ Phật Giáo. Những tài liệu này đã có từ thuở đó tuy còn hơi thô sơ rời rạc. Có người lại cho là thật sự những tài liệu này được viết bằng Hán tự và có lẽ được viết ra bởi người Trung Quốc. Tóm lại là nó có nguồn gốc không rõ ràng. Ðiểm đáng chú ý nhất, khác với Truyền Thống Phật Giáo Nguyên Thủy có tư tưởng nhất quán, thì những tài liệu nói trên, tư tưởng không nhất quán, dường như do nhiều người viết ra ở nhiều địa điểm, nhiều thời đại khác nhau … Rất nhiều tài liệu chính quy là của Trung Quốc, nhưng cũng có những tài liệu vẫn còn bàn cãi về tác giả như: Bát Nhã (có người cho đó là tác phẩm của Huyền Trang). Mặt khác, chúng ta có thể loại trừ ra được rất nhiều thông tin mà có lẽ nó đi quá xa so với thời Ðức Phật còn tại thế.

Căn cứ vào tài liệu của hệ Pali thì Sakya Muni - người Việt Nam gọi là Đức Phật – có những đặc điểm cần nhấn mạnh như sau:

Sakya Muni là Phật, chỉ có một không có hai. Không thể có một Sakya Muni thứ hai, trong lúc Sakya Muni còn tại thế.
Vị trí của Sakya Muni là độc nhất vô nhị.
Cho đến kiếp hiện tại này, chỉ có một Ðức Phật mà thôi.

“Giữa thế giới Nhân Thiên. Không có ai bằng Ta”. (Trung Bộ kinh)

4. THIÊN THƯỢNG, ĐỊA HẠ, DUY NGÃ ĐỘC TÔN

Ðây không phải là một lời phát biểu mang tính chất kiêu căng tự phụ như người ta có thể ngộ nhận. Câu này muốn nói: Chỉ có một vị Phật, chỉ có một Con Đường, chỉ có một Chánh Pháp, nước biển chỉ có một vị mặn, Phật Giáo chỉ có một vị duy nhất là Giải Thoát.

Qua phần trình bày trên, chúng ta phải khẳng định rằng: Chỉ có một Sakya Muni, chỉ có một vị Phật, chỉ có một Đấng Giác Ngộ, chỉ có một Chánh Pháp, chỉ có một Chân Lý Bất Tử: Vô thường, Vô ngã, Khổ não, chỉ có một công thức bất tử: Giới, Định, Huệ, chỉ có một con đường bất tử: Bát Chánh Đạo.

- Tam Tiểu Thư: Tôi hiểu rồi!

Trăng ngày rằm tỏa ánh sáng trong veo trên núi rừng hoang sơ cô tịch. Ông Tổng Quản và Tam Tiểu Thư ngồi yên lặng bên đống lửa ấm áp. Dựa vào một gốc Cây Đại Thụ, Tam Tiểu Thư hít thở sâu vài hơi và nhẹ nhàng nhắm mắt lại. Lời nói của Tổng Quản vang lên trong đầu:

Truyền Thống Phật Giáo mà mất đi Thiền Định, đồng nghĩa với mất đi Linh Hồn, mất đi Sức Sống”. 

Đêm nay, đề mục tu tập với hình ảnh Đức Phật ngồi Thiền định bỗng nhiên trở nên thiêng liêng trong lòng cô.

(còn tiếp) ...

Tác giả: CTR


Bài viết này để kính tặng quý độc giả đã viết nhận xét cho Tập 18 của Xuyên Vân kiếm pháp: Nặc danh / Tu sĩ Gà mờ / Tam Nhu.

Ghi Chú:
Những bài viết của nhóm CTR, chỉ là sản phẩm của giả tưởng. Tuyệt đối không có bất cứ một giá trị nào, ở bất cứ lãnh vực nào. Mong quý độc giả lưu tâm!



1 comments:

Giờ mới vào đọc đến bài này của tác giả.
"Truyền Thống Phật Giáo mà mất đi Thiền Định, đồng nghĩa với mất đi Linh Hồn, mất đi Sức Sống”
Câu này quá đúng,không thể phủ nhận.

Đăng nhận xét